Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những giai thoại về cháo trong kinh Phật

12 Tháng Mười 201000:00(Xem: 16420)
Những giai thoại về cháo trong kinh Phật

blank
Tại một gốc cây, bên bờ sông Ni Liên Thiền này, nàng Sujata đã dâng bát cháo sữa cúng dường Đức Phật
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak (Tam hợp). Nói đến việc thành đạo của Đức Thế Tôn là phải nói đến một chi tiết nhỏ nhưng vô cùng quan trọng.

Đó là bát cháo sữa đã giúp sức cho Ngài tu tập đạt thành chánh quả. Trong buổi sáng trước ngày Thành đạo, lúc Bồ tát ngồi dưới gốc cây Ajapala gần cội Bồ đề bên bờ sông Neranjarà, một phụ nữ tên Sujata đã dâng đến Ngài bát cháo sữa mà nàng đã tự tay nấu lấy. Sau khi thọ xong bữa ăn có nhiều chất dinh dưỡng ấy, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần nhật. Có lẽ nhờ bát cháo Sujata mà cháo đã trở thành một món ăn quan trọng thường được Đức Thế Tôn nhắc đến trong kinh điển. Theo Trường Bộ Kinh (kinh số 17) có tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa. Rất nhiều lần Đức Phật được dâng cháo sữa, cháo gạo hay cháo đặc biệt nấu từ hoa cây sala của gia chủ Ugga, Ngài đều hoan hỷ thọ nhận. Nhưng cũng có khi Ngài chối từ không thọ nhận. Đó là trường hợp bát cháo của người Bà la môn Kasibhàradvàja. Tiểu Bộ Kinh (kinh Tập, chương Một, phẩm Rắn, Người cày ruộng) ghi: “Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một làng Bà la môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ, Bà la môn Kasibhàradvàja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, vì là thời gieo mạ. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến chỗ Bà la môn Kasibhàradvàja đang làm việc. Lúc bấy giờ Bà la môn Kasibhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, để khất thực. Bà la môn Kasibhàradvàja liền nói với Thế Tôn:

- Này Sa môn, ta cày và ta gieo, sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa môn, hãy cày và gieo. Sau khi cày và gieo, hãy ăn!
- Này Bà la môn, Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn.
- Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu bò, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Sau khi nghe như thế, Thế Tôn giảng giải phương pháp cày bừa của Ngài. Bà la môn Kasibhàradvàja nghe xong hoan hỷ lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng Đức Phật nhưng Thế Tôn không thọ dụng vì người này cúng dường không đúng pháp: Ta không hưởng vật dụng/Do tụng kệ đem lại/Ðây không phải là pháp/Của bậc có chánh kiến”.

Cháo là hình thức của cơm nấu loãng, là thực phẩm thông dụng của trẻ em hoặc người già, người bệnh. Có một loại cháo mà tất cả chúng sanh khi đi đầu thai vào cảnh giới khác đều phải ăn là “cháo lú”. Tục ngữ Việt Nam có nhắc nhiều đến cháo: ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng, ăn cháo để gạo cho vay, ăn cháo đá bát, tiền trao cháo múc, bữa rau bữa cháo, cơm hàng cháo chợ, mượn đầu heo nấu cháo v.v… nhưng đây chỉ là những câu nói ví von không chuyên chở được những lợi ích thực tiễn của cháo. Với cái nhìn siêu việt của bậc Đạo sư, Đức Phật đã nhận ra năm lợi ích của cháo là: trị đói, trừ khát, điều hòa phong, làm sạch bàng quang (và huyết quản) và tiêu hóa các đồ ăn sống còn lại. Năm điều này đã được Ngài nói đến trong Tăng Chi Bộ Kinh (chương 5, phần Cháo).

Có lẽ chư Tăng chùa Thiếu Lâm tại Trung Hoa cũng thông hiểu những lợi ích này nên đã sử dụng cháo trong thực đơn hàng ngày: Thiếu Lâm sư Tăng ngày ba bữa/Sáng thường cháo đặc hai bát đầy/Trưa thì cháo loãng với bánh bột.
Trưởng giả Cấp Cô Độc cũng thường xuyên cúng dường cháo vào buổi sáng. Trong khi bậc Ðạo sư còn ở Kỳ Viên, mỗi ngày sáng trưa chiều vị triệu phú đi đến tinh xá ba lần để cúng dường. Ngoài ra, còn nhiều sự giúp đỡ khác. Ông Cấp Cô Ðộc không bao giờ đi tay không, ngại các Sa di hay Tỷ kheo trẻ xem mình có đem gì trong tay không. Buổi sáng ông đem theo cháo…

Dù cháo là món thực phẩm khiêm nhường nhưng không phải vì lẽ ấy mà các Tỷ kheo được thọ dụng một cách bừa bãi. Trong một vài trường hợp Đức Thế Tôn dạy các Tỷ kheo không nên thọ dụng món cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời ở một nơi khác. Trong Luật tạng (Đại phẩm, chương Dược phẩm), Đức Phật kể chuyện một ngàn hai trăm vị Tỷ kheo từ chối thọ nhận thịt từ sự cúng dường của một quan Đại thần mới có đức tin, vì chư vị Tỷ kheo này đã thọ cháo đặc vào sáng sớm rồi. Vị quan đại thần giận dữ và không hoan hỷ. Sau khi Đức Thế Tôn thọ thực xong, Ngài thuyết pháp cho vị quan ấy và giảng về phước báo mà ông đã tạo, khiến ông trở nên mừng rỡ, phấn chấn. Do sự kiện này, Thế Tôn chế định điều luật như trên.
Cũng để tránh việc không đem lại niềm tin cho những người chưa có đức tin, Thế Tôn dạy cháo cúng dường phải được tạo ra hợp pháp, đúng lẽ đạo. Ngài đã khiển trách một vị Tỷ kheo trước đó làm nghề thợ cạo đã cúng dường cháo bằng phương pháp không thích nghi. Vị này sai hai người con của mình đem thùng dao cạo đi từ nhà này qua nhà khác; với sự thưởng công họ gom góp muối, dầu ăn, gạo lứt, và vật thực loại cứng để làm món cháo cúng dường đến Đức Thế Tôn. Với tâm của đấng Như Lai, Thế Tôn biết mọi sự việc nhưng Ngài vẫn hỏi lại người thợ cạo xuất xứ của món cháo và người thợ cạo đã xác nhận việc làm của mình nên Ngài đã qui định là vị nào trước đây là thợ cạo không nên mang theo thùng dao cạo (Luật tạng, Đại phẩm, chương Dược phẩm).

Trong kinh tạng Pàli chúng ta thấy các vị Phật Độc Giác, Phật Bích Chi, Tỷ kheo… thọ dụng cháo rất thường xuyên. Một vị Bích Chi Phật thường đến khất thực tại nhà một người chăn bò và được ông nấu dâng rất nhiều cháo và xúp, mỗi khi thọ nhận Ngài đều dành cho con chó của người chăn bò một phần cháo nên nó cứ quấn quýt bên Ngài.
Nhưng không phải Tỷ kheo nào cũng nhận được những bát cháo sữa thơm ngon hay bát cháo mới nấu. Có vị đã phải nhận một bát cháo cũ người ta đem đi quăng đổ như Tôn giả Ratthapala. Tôn giả đi khất thực từng nhà một ở Thullakotthita và đến tại nhà người cha mình nhưng không nhận được bố thí, chỉ nhận được lời sĩ nhục. Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân gia của Tôn giả Ratthapala muốn quăng đổ cháo ngày hôm qua. Tôn giả Ratthapala nói với người nữ tỳ ấy:
- Này chị, nếu cần phải quăng đổ cháo này, hãy đổ vào bát của tôi ở đây.
Rồi tôn giả Ratthapala ngồi dựa vào một bức tường, ăn cháo của ngày hôm qua ấy (Trung Bộ Kinh, kinh Ratthapala, số 82).
Cũng giống như Tôn giả Ratthapala nhận được cháo thiu bố thí mà vẫn an vui thọ dụng, nhiều Tỷ kheo đi khất thực khắp đường phố chỉ nhận được vài muỗng cháo và họ vẫn an lạc uống cháo ấy như câu chuyện kể trong Thanh Tịnh Đạo: “Sáng sớm, các đại đức cùng vào thành. Khi họ đã đi hết một con đường phố và chỉ được muỗng cháo, họ ngồi tại một nhà mát để uống cháo ấy”.

Cho dù cháo không phải là loại thực phẩm thượng vị nhưng đôi khi các Tỷ kheo muốn dùng cũng vẫn phải bạch lên Đức Thế Tôn. Thí dụ như có nhu cầu về nước cháo trắng, các vị đã trình sự việc ấy lên Đức Thế Tôn.
- Này các Tỷ kheo, ta cho phép (sử dụng) nước cháo trắng.
Vào lúc bấy giờ, có vị Tỷ kheo nọ bị bệnh đau bụng bão. Vị ấy đã húp cháo chua có bỏ muối. Bệnh đau bụng bão ấy của vị ấy đã được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên Đức Thế Tôn.
- Này các Tỷ kheo, ta cho phép thọ dụng cháo chua có bỏ muối một cách thoải mái đối với vị bị bệnh (Luật tạng, Đại phẩm, chương Dược phẩm).
Đức Thế Tôn từng nói đến cháo như là dược phẩm và Ngài đã dạy cho một người Bà la môn nhiều điều lợi ích về cháo cũng như sự lợi ích của việc bố thí cháo đến những bậc đáng cúng dường:
- Này Bà la môn, đây là mười điều lợi ích của cháo. Mười điều ấy là gì? Trong khi bố thí cháo (người ấy) bố thí tuổi thọ, bố thí sắc đẹp, bố thí sự an lạc, bố thí sức mạnh, bố thí trí tuệ, người đã húp cháo dứt hẳn cơn đói, chận đứng cơn khát, điều hòa gió, làm sạch bàng quang, và làm tiêu hóa phần (vật thực) thô còn lại chưa được tiêu hóa. Này Bà la môn, đây là mười điều lợi ích của cháo. Ngài còn dạy thêm: Người nào bố thí cháo/Cung kính và hợp thời/Đến những ai thu thúc/Ăn vật kẻ khác cho/Là đã cho vị ấy/Được mười điều lợi ích/Tuổi thọ, và sắc đẹp/An vui, và sức mạnh/Nhờ đó được sanh khởi/Trí tuệ cho vị ấy/Xua đi được cơn đói/Cơn khát, gió (điều hòa)/Làm trong sạch bàng quang/Tiêu hóa vật ăn vào/Vật ấy là dược phẩm/Đấng Thiện Thệ ngợi khen/Bởi thế, người khao khát/An lạc chốn thiên đường/Hoặc là đang mong muốn/Sự phồn vinh nhân loại/Nên thường xuyên bố thí/Cháo đầy đủ đến vị/Có nhu cầu an lạc (Luật tạng, Đại phẩm).

Lời dạy ấy đã đem lại một quả thiện vô cùng thù thắng cho một người giữ ruộng. Tích truyện Pháp Cú (số 54) có thuật lại câu chuyện một người giữ ruộng được sanh thiên nhờ bố thí đúng thời một bát cháo cua đến một Tỷ kheo bị bệnh: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm. Thời ấy một Tỷ kheo đang thực hành thiền quán bỗng ngã bệnh vì chứng đau tai rất trầm trọng. Thuốc chữa của y sĩ chẳng công hiệu gì. Vị ấy trình với Đức Thế Tôn, Ngài biết cháo cua là thứ thuốc chữa bệnh ấy, bèn dặn vị Tỷ kheo ấy đến khất thực ở vùng đồng ruộng nước Ma Kiệt Đà. Vị ấy đến đó và đứng khất thực tại cửa lều người giữ ruộng. Người này, sau khi nấu món cháo cua làm thức ăn, liền mời vị ấy ngồi và cúng một ít cháo.
Vị Tỷ kheo ăn món cháo thì trở nên khỏe mạnh như thể được tắm với cả trăm gàu nước mát. Tâm trí thanh thản nhờ thức ăn thích hợp, vị ấy hướng tâm trở về thiền quánchứng đắc quả A la hán ngay cả trước khi ăn xong bữa. Vị ấy bảo người giữ ruộng:
- Này cư sĩ, nhờ phước quả công đức này, hiền hữu sẽ không còn bị thân bệnh và tâm bệnh nữa.

Chúc phước xong, vị ấy ra đi. Về sau người giữ ruộng từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một căn phòng làm bằng ngọc bích, giữa một tòa lâu đài bằng vàng rộng mười hai do tuần, trụ bằng ngọc được trang hoàng uy nghiêm với bảy trăm sảnh đường có nóc nhọn cao vút. Trước cửa lâu đài, một con cua bằng vàng được treo trên một chuỗi ngọc trai”.
Ngoài ra còn nhiều phước báu cao quý khác như được làm hoàng hậu, làm vua chỉ vì bố thí cháo đến chư Phật Độc Giác như trong Chuyện tiền thân (số 415) nói về nguyên nhân hoàng hậu Mallikà được phong làm chánh hậu: “Mallikà (Mạt Lợi) nguyên là con gái của vị trưởng nghiệp đoàn bán vòng hoa, cực kỳ diễm lệhiền thục. Khi nàng được 16 tuổi, trong lúc đi đến vườn hoa cùng các thiếu nữ khác, nàng mang theo ba phần cháo sữa chua trong giỏ hoa. Khi rời thành phố, nàng trông thấy Đức Thế Tôn vào thành, tỏa hào quang rực rỡ và được Tăng chúng vây quanh, nàng đem cúng dường Ngài ba phần cháo ấy. Bậc Ðạo Sư đưa bát của ngài ra nhận cháo. Nàng đảnh lễ chân Đức Như Lai và lấy niềm hoan hỷ ấy làm chủ đề thiền quán, nàng đứng sang một bên. Bậc Ðạo Sư mỉm cười, nhìn nàng. Tôn giả Ànanda tự hỏi tại sao Đức Như Lai mỉm cười và hỏi Ngài vấn đề này. Bậc Ðạo Sư nói lý do:
- Này Ànanda, cô gái này hôm nay sẽ trở thành chánh hậu của vua Kosala do phước báu ba phần cháo này.

Còn cô gái tiếp tục bước đến vườn hoa. Ngay chính hôm ấy vua Kosala giao chiến với vua Ajàtasattu và thất bại phải đào tẩu. Trong khi đang đi ngựa, vua nghe tiếng nàng hát rất hấp dẫn liền thúc ngựa vào khu vườn. Công đức của cô gái đã đến thời chín muồi, vì thế khi thấy vua, nàng không chạy trốn mà đi đến cầm lấy dây cương nơi mũi ngựa. Vua ngồi trên lưng ngựa hỏi nàng đã có chồng chưa. Khi nghe nàng đáp chưa, ông đưa nàng lên ngựa, cùng đạo quân hùng hậu đi vào thành. Chiều hôm ấy vua phong nàng làm chánh hậu”.
Rồi Ngài kể thêm chuyện tiền thân của Bồ tát Kummasàpinda nhờ bố thí cháo không có muối đến chư Phật mà được làm vua: “Thuở đó Bồ tát sinh vào một nhà nghèo. Khi lớn lên ngài tìm kế sinh nhai bằng cách làm công cho một nhà giàu. Một hôm ngài mua bốn phần cháo ở cửa tiệm và suy nghĩ: Cái này vừa đủ để ta ăn sáng. Rồi ngài ra làm việc ngoài đồng. Khi thấy bốn vị Ðộc Giác Phật đang vào Ba La Nại khất thực, ngài suy nghĩ: Ta có bốn phần cháo này, giả sử ta đem cúng dường các vị đang đến Ba La Nại khất thực? Vì thế ngài đi đến đảnh lễ các vị và nói:
- Thưa các Tôn giả, con hiện đang cầm bốn phần cháo, con xin cúng dường các vị, mong các vị nhận lấy để cho con được phước đức đem lại an lạc lâu dài về sau.
Được các vị nhận lời, ngài đặt bốn phần cháo vào bốn bình bát vừa đảnh lễ cung kính vừa thưa:
- Thưa các Tôn giả, ước mong nhờ phước báu này con sẽ không sinh vào nhà nghèo nữa, ước mong đây sẽ làm nhân duyên cho con đắc quả vị Chánh Giác.
Nhờ phước báu này, ngài tái sinh vào mẫu thai của chánh hậu thành Ba La Nại, được đặt tên vương tử Brahmadatta. Khi được lên làm vua ngài quán sát biết đó là do công đức cúng dường bốn vị Ðộc Giác Phật bốn phần cháo ở kiếp trước nên đã nói lên: Cúng dường chư Phật cao quý thay/Người bảo đừng xem rẻ việc này/Ðem tặng cháo dù không có muối/Cho ta phước báu lớn như vầy”.

Trong khi cháo đem lại lợi lạc cho nhiều người thì cháo cũng đem đến đau khổ cho một số người khác. Chuyện tiền thân (số 423) ghi: “Một thiện gia nam tử ở Sàvatthi nghe giáo pháp của bậc Ðạo Sư thì để lại tài sản, nhà cửa cho vợ con, và thỉnh cầu bậc Ðạo Sư truyền giới xuất gia cho mình. Vì ông chỉ là Sa di lúc khất thực cùng các vị giáo thọ, sư trưởngTăng chúng lại đông, nên ông không có được ghế ngồi trong nhà cư sĩ hoặc trong trai đường, mà chỉ có một ghế thấp nhỏ hoặc ngồi ở dãy ghế dài cuối chỗ các Sa di. Thức ăn chỉ được múc vội vã cho ông bằng cái muỗng lớn: ông nhận món cháo tấm, các món cứng thì hôi hám hoặc hư nát, hoặc các cọng rau đã khô héo, cháy sém và phần ăn này không đủ nuôi sống ông.
Ông liền đem các món ăn nhận được về đưa cho người vợ cũ mà ông đã rời bỏ. Nàng cầm lấy bình bát, kính chào ông, đổ hết các thứ ấy ra và thay vào món cháo nấu thật ngon và cơm trộn sốt cà ri. Vị Sa di bị lòng ham thích các hương vị ấy lôi cuốn nên không thể rời vợ. Món cháo tấm thanh tịnh của người xuất gia đã được thay bằng món cháo thượng vị của người phàm phu để người Sa di đã quay trở lại con đường mà trước đây mình từ bỏ”.
Qua các câu chuyện về cháo, chúng ta nên tri ân bát cháo Sujata, vì nhờ nó mà chúng ta có được giáo pháp nhiệm mầu để nương nhờ. Chúng ta cũng nên suy nghiệm về mười điều lợi ích của cháo và sự cúng dường cháo mà Đức Thế tôn đã chỉ dạy như thọ dụng cháo đúng pháp và bố thí cháo đúng thời. Điều quan trọng nhất trong mười điều này là bố thí cháo đến những vị biết thu thúc tức là giúp điều kiện cho trí tuệ của vị ấy được sanh khởi. Khi trí tuệ của một bậc phạm hạnh được sanh khởi thì sự lợi ích đem đến cho chúng sanhvô lượng.

MÙA VESAK PL.2553

NHƯ QUANG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11845)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9108)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17773)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 9983)
Thật hạnh phúc có được một bậc thầy như Người: Đức Phật. Người đã đến thế giới này để mở lối đi cho tất cả... Vĩnh Hảo
(Xem: 9384)
Bài Tường thuật khoá tu học Phật pháp của Gia Đình Phật Tử Thiện Trí tại Thụy Sĩ lần thứ 6 năm 2014... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 10780)
Ai mới là bậc thầy, bậc thiện tri thức đúng nghĩa để mọi người có thể nương tựa học hỏi, và tu hành theo đúng Chánh pháp... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15102)
Người ta có thể quên tất cả những gì bạn đã nói, đã làm. Nhưng người ta sẽ không bao giờ quên cảm giác mà bạn đã đem lại cho họ... Hoavouu sưu tầm
(Xem: 10435)
Tập truyện của 8 tác giả: Cộng tác viên của Báo Viên Giác. Đều là những Phật tửPháp danh và nhiều chị xuất thân từ nhà giáo... Trần Đan Hà
(Xem: 12579)
Người nghèo quá dễ sinh ra những hành động thấp hèn, không có niềm tin về nhân quả nên sẽ oán trời trách đất, đổ thừa cho gia đình người thân và xã hội... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 9960)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cảnh báo về nguy cơ hủy diệt nền văn minh hiện nay bởi sự thay đổi khí hậu và để đảo ngược lại quá trình đó, ta cần phải khôi phục niềm tin tâm linh... Jo Confino
(Xem: 9179)
“Tiếng Gọi Từ Bi” (The Call of Compassion) là chủ đề của Lễ Hội Quan Âm năm 2014 tại Trung Tâm Phật Giáo - Chùa Việt Nam, Houston, Texas... Thích Nữ Giới Hương
(Xem: 10131)
Con người là quan trọng hơn hết khi chúng ta biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là Phật và biết thương yêu bình đẳng... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 9306)
Rinpoche ban lời chỉ dạy sau đây cho một tù nhân, là một người mới theo Đạo Phật. Anh ta đã bị kết án tử hình, bản án sẽ được thi hành trong thời gian ba tháng... Việt dịch: Thanh Liên
(Xem: 9834)
Có lần Phật dạy: "Bất cứ ở chỗ nào trên thế gian này, lấy cây cắm xuống thì cũng là chỗ ta bỏ thân mạng"... Thích Thông Phương
(Xem: 12408)
Có bao giờ bạn tự hỏi: Nếu cuôc đời không có phiền não, khổ đau chúng ta có cần tìm con đường tu giải thoát hay không?... Thiện Ý
(Xem: 9710)
“Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ..." Thanh Liên
(Xem: 9784)
"Xuân đi, đóa đóa hoa rơi, Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu, Việc đời trước mắt qua mau, Tuổi già chợt đến trên đầu thế a!” (Mãn Giác)... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 12975)
Phật độ khắp mười phương, nhưng chớ hiểu nhầm hai chữ “tha lực”; rằng Phật sẽ đưa tay “bốc” chúng sanh từ Ta bà đặt lên Cực lạc... Hồ Dụy
(Xem: 9560)
"Nay Ta sẽ nói về con đường dẫn đến Nê-lê (địa ngục) và con đường hướng đến Niết-bàn. Hãy khéo suy nghĩ ghi nhớ điều này, đừng để rơi mất..." Quảng Tánh
(Xem: 10171)
Trong cuộc sống của chúng ta cần phải có nhiều người biết nghĩ đến tình thương để sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia, bao dung người khác khi có việc cần thiết... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 11405)
An Cư là một trong các pháp chế trọng yếu trong đời sống tu hành của Tăng Đoàn Phật giáo... Hạnh Cơ
(Xem: 10341)
Chúng tôi sẽ thuyết một thời pháp cho tất cả Tăng Ni Phật tử nghe, với đề tài Cội gốc sanh tử và cội gốc Niết-bàn... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24687)
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật thùy từ chứng minh gia hộ... Việt nghĩa: HT Thích Huyền Dung, Phổ thơ: Thích Liễu Nguyên
(Xem: 10706)
Quán Thế Âm - Đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 12026)
Chúc mừng bạn Thiện Trí - Olaf Beuchling, một người bạn trong đời và bây giờ là bạn trong đạo... Nguyên Đạo
(Xem: 9985)
Phật pháp có thể giúp chúng ta có sự hiểu biết chân chính về sự tốt xấu, phải quấy, đúng sai của cuộc sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 14406)
Nội dung câu chuyện chỉ là để nói lên một “Tình Yêu vô nhiễm” của một vị đại đạo sư đã chứng đắc Bồ Đề TâmTrí Huệ Không Tánh... Chiêu Hoàng
(Xem: 13886)
Không tự tỏ mình cho nên sáng, không tự nhận là phải cho nên rực rỡ, không tự kể công cho nên có công, không tự khoe mình cho nên đứng đầu... Lý Minh Tuấn
(Xem: 14980)
Con từ sanh tử bình an, Mang ơn Mẹ đã bao lần cứu con, Cứu từ nước cuốn, sống còn, Cứu từ máu chảy, thân con năm nào... Thích Liễu Nguyên dịch nghĩa & tác thơ
(Xem: 10230)
Chúng tôi có thể đối chiếu hai thái độ khác nhau giữa quan điểm Tây Phươngquan điểm truyền thống Á Đông đối với Phật Giáo... Nguyên tác tiến sĩ Peter D. Santina; Thích Tâm Quang dịch Việt
(Xem: 10331)
Sau mấy ngày họp mặt tại Hamburg, 8 chị em chúng tôi kéo nhau về chùa Viên Giác, Hannover để dự lễ Rằm Tháng Giêng... Phương Quỳnh Diệu Thiện
(Xem: 9902)
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết?... Hồ Minh Ngọc
(Xem: 13264)
Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm... Quảng Tánh
(Xem: 8983)
"Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không?"... Trần Xuân Hải dịch
(Xem: 10560)
Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc... Nhất Linh; Khái Hưng
(Xem: 9451)
Con người thường bị cảm giác khổ vui làm chủ, khi mắt thấy sắc đẹp vừa ý liền bị cảm giác thọ vui thu hút... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 9256)
Với cái thấy bất nhịtương đãi, Phật giáo Duy Biểu có thể buông bỏ tính cách quyền thừa lâu nay của mình để trở nên một đạo Bụt Đại thừa trọn vẹn... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 11628)
Khái quát chia làm 9 thành phần như sau: Thiền sư, Kinh sư, Luật sư, Pháp sư, Giáo sư, Giảng sư, Kiến trúc sư, Y sư và Cứu tế sư... Thích Phước Sơn
(Xem: 11429)
Thất tình lục dục là bảy thứ tình cảm được biểu lộ ra bên ngoài và là sáu việc ham muốn của một con người. Đó là nói theo căn bản... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 10934)
Mỗi người trong chúng ta, ai sinh ra trong cuộc đời nầy cũng đều có một nghiệp quả khác nhau... HT Thích Như Điển
(Xem: 10229)
Tích tập là duyên sinh tụ hội của vạn pháp, và buông xả là sự lặng thinh tuyệt đối của không gian vô định như thuở nào vô thủy vô chung... Thích Phổ Huân
(Xem: 12594)
Biểu tượng cho hạnh phúcan lạc là nụ cười của Phật Di lặc, người Mỹ gọi một cách đầy tính dân gian gần gũi là ông Phật Vui Sướng, Ông Hạnh Phúc (Happy Buddha), hay ông Phật Cười (Laughing Buddha)… Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 9056)
Nguyện cho tất cả chúng sinh nhổ bật hết mọi cội rễ sân hận và oán thù để trở thành hiện thân của tình thương bao la... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 16290)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 9830)
Đã là con chim, chiếc lá, Chim phải hót, lá phải xanh, Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình... Tuệ Đạt
(Xem: 9542)
Mỗi lần tết đến, chúng ta ôn lại những việc trong năm, những đoạn đường đã qua, những sai lầm thiếu sót và những tạm thời thành tựu... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10693)
Những lời giảng dạy của bảy Đức Phật, từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong giới kinh giống như tiêu chỉ nguyệt... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 10799)
"Tinh tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến, bỏ lại sau lưng con ngựa gầy hèn"... Như Đức
(Xem: 9245)
Vừa qua, chúng tôinhân duyên được tháp tùng với Thầy Phương Trượng chùa Viên Giác, theo chương trình Tu họcHành hương Thái Lan & Miến Điện... Trần Đan Hà
(Xem: 10316)
Kỷ niệm chuyến hành hương Thái Lan và Miến Điện tháng 12 năm 2013 trong phái đoàn HT Thích Như Điển ở Âu Châu... Hoa Lan - Thiện Giới
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant