Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đứa con bất hiếu

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 16453)
Đứa con bất hiếu

Đứa con bất hiếu


 “Mà thương mạ vẫn thường hay tựa cửa

Bên mâm cơm, vắng bóng đứa con về”. (hp)

Người xưa thường nói “Nuôi con mới biết lòng cha mẹ”(1), điều đó hẳn là không sai, vì ngày nay, chúng ta cực khổ vì con chừng nào thì nghĩ đến ngày trước, khi chúng ta nhỏ bé, ấu thơ, cha mẹ đã khổ vì ta chừng ấy. Nhưng có điều ngậm ngùi nhất là khi về già, ngẫm lại chúng ta thấy quả chúng ta là những đứa con bất hiếu, vì có những điều chúng ta thường mong đợi nơi con chúng ta hôm nay, chúng ta chưa hề làm cho cha mẹ.

Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang, đứa xa nhất cũng một vài giờ xe. Những ngày lễ cuối năm hay khi hữu sự, có đầy đủ con cái trong gia đình về sum họp, cháu chắt đầy nhà, bận rộn nhưng trong lòng thấy hạnh phúc vui tươi. Thế mà ngày xưa, khi đủ lông đủ cánh, tôi như con chim chỉ muốn bay xa, thật xa không muốn về đậu nơi gần tổ cũ. Khi có gia đình rồi lại muốn đi xa hơn nữa. Cha mẹ tôi ở Huế, nhưng tôi lại muốn vào làm việc ở Saigon, quả thật đôi khi cũng vì công vụ, nhưng thật lòng không bao giờ tôi muốn về nơi đó để hôm sớm có cha có mẹ. Như vậy dù mỗi năm một lần trở về viếng thăm cha mẹ già, điều đó đã đủ chưa? Ðối với đứa con, nó cho là đủ, nhưng với sự mong chờ của cha mẹ, hãy còn quá ít.

Tôi biết nỗi cô đơn của những người già trông đợi con, nhưng mỗi đứa con lớn lên đều có đời sống riêng, một mái gia đình riêng và những nỗi lo lắng riêng. Hình ảnh cha mẹ trong lòng mỗi đứa con, đôi khi tưởng như mờ nhạt, nhưng mỗi đứa con dù đã lớn khôn, có gia đình riêng vẫn ở trong lòng của mỗi người cha, mỗi người mẹ rất đậm nét. Thương con rồi còn lo nghĩ đến thế hệ cháu. Chúng có được mặc ấm không? Ði nghỉ Hè có được cha mẹ để mắt trông chúng khi chúng xuống biển hay khi qua đường không? Hôm nay trời nóng, chúng có uống nhiều nước không? Sáng nay trời lạnh, đến trường chúng có mặc đủ ấm không? Những câu hỏi thường làm cha mẹ chúng bực mình, nhiều khi trả lời gay gắt với chúng ta, và ngày xưa chúng ta cũng đã từng nói như thế với cha mẹ. Ngày xưa khi tôi có dịp về thành phố, nơi cha mẹ đang sinh sống, tôi thường đi theo bạn bè hay đồng nghiệp ở một vài ngày nơi khách sạn bên kia sông, hơn là về nhà cha mẹ nằm ngủ trong cái mùng cũ kỹ, ố vàng hay ăn một bữa cơm rau dưới ánh đèn lù mù. Tôi biết cha mẹ tôi đã mừng rỡ như thế nào khi nghe tin tôi về nhà, mẹ tôi đã chắt chiu nấu cho tôi món canh măng hay món cá kho mà tôi vẫn thích từ thuở nhỏ. Khi tôi về trễ, mâm cơm dọn sẵn vẫn còn đậy trong cái “lồng bàn” chờ tôi, nhưng tôi đã ăn no, cũng không buồn dở mâm cơm ra, cầm đũa lên, xuýt xoa trước những món ăn quen thuộc thời thơ ấu cho mẹ tôi vui lòng. Quả thật tôi là đứa con bất hiếu.

Ngày nay mỗi lần thấy một bóng chiếc xe quen quẹo vào khu parking, vợ tôi cứ tưởng là có con ghé nhà, điều ấy có khác chi ngày xưa cha tôi vẫn dõi mắt ra đường lộ, nhìn những người khách lạ vừa xuống chuyến xe đò, ngỡ là đứa con của mình vừa trở lại quê nhà. Ngày nay theo vận nước, con người nổi trôi đi khắp chân trời góc biển, nhiều gia đình con cái phân tán, đứa ở trời Tây đứa ở phương Ðông, dù vật chất dư thừa, nhưng làm sao có được cái ấm cúng, sum vầy, nhất là lúc “tối lửa tắt đèn”.

Ngày xưa, tôi không thích tham dự những ngày giỗ kỵ trong gia đình vẫn thường phải bó buộc giờ giấc, nhưng nếu không có những ngày giỗ kỵ như thế, khó có dịp gặp lại được đông đủ bà con quyến thuộc. Bây giờ chẳng ai còn cho những ngày giỗ tổ tiên là quan trọng, nhiều lắm là dành cho cha mẹ, còn như lên cao hơn đến ông bà thì ít ai còn nghĩ đến. Tôi biết một ông cụ ngày xưa giữ đến chức Tuần Vũ, có đến năm bà, mỗi bà trung bình có năm đến bảy con, tổng cộng ông có đến ba mươi người con, nếu không có những ngày giỗ kỵ, sum họp gia đình nghiêm ngặt, thì đến anh em ruột cũng không biết nhau, nói gì đến hàng cháu nội ngoại ra đường nhìn nhau như người dưng, rồi chuyện gì cũng có thể xẩy ra giữa anh em, họ hàng. Ngày nay ở hải ngoại, con cái đi làm ăn xa, tình gia tộc không còn khắng khít như xưa, may lắm là những ngày lễ cuối năm có những cuộc đoàn tụ trong từng mỗi gia đình nho nhỏ, còn như họ hàng thì càng ngày càng xa cách. Chúng ta thường thấy các cuộc họp đồng hương hay những cuộc hội ngộ với các chiến hữu trong đơn vị cũ, nhưng trong mỗi họ, mỗi gia tộc thì chỉ còn gặp nhau trong các tiệc cưới hy hữu mà thôi.

Nếu ngày xưa chúng ta vô tình hay thờ ơ với cha mẹ, để ngày nay, chúng ta đôi khi cũng gặp lại những cảnh huống như thế thì chúng ta lại cho là luật đời. Có người lại cho là chuyện nhân quả, gieo đậu thì có đậu, trồng khoai thì có khoai. Những điều chúng ta mong mỏi được con cái đối xử ngày hôm nay, chúng ta chưa hề làm cho cha mẹ. Khi biết ra thì cha mẹ đã qua đời, có hối hận luyến tiếc thì cũng không sao níu kéo lại được thời gian đã mất, bây giờ chỉ còn lại những nấm mồ đã xanh cỏ. Mỗi lần có người trong họ hàng qua đời, câu hỏi thân tình của chúng ta là “không biết các cháu có về đông đủ không?” Và đến khi nằm xuống, chắc chắn chúng ta ai cũng mong như thế. Khi cha tôi qua đời ở miền Trung, tôi đang ở trong nhà tù đất Bắc. Khi mẹ tôi ra đi ở quê nhà, tôi đang ở cách nơi đó nửa vòng trái đất. Dù với bất cứ lý do nào đi nữa, tôi cũng là đứa con bất hiếu, không về để phục tang, chống chiếc gậy tre bên quan tài cha tôi hay tiễn mẹ tôi đi một đoạn đường. Những món ngon vật lạ dâng lên bàn thờ cha mẹ, bây giờ đâu còn chút ý nghĩa gì. Ðám tang cho lớn, nghi thức rềnh rang chỉ dành tiếng tăm cho người sống, còn người chết chỉ mãn nguyện được ra đi thanh thản, hạnh phúc vì lúc còn sống được con cái hiếu thuận, phụng dưỡng, thương yêu. Ngày xưa, khi ra làm quan, thầy Tử Lộ buồn than vì không còn cha mẹ để phụng dưỡng, nhưng thuở hàn vi, thầy đã vất vả đội gạo, làm thuê để nuôi cha mẹ, cũng đã trọn đạo làm con rồi.

Chúng ta ai cũng mong có con cái quanh quẩn bên mình, hỏi han săn sóc, lưu tâm đến đời sống của cha mẹ, nhưng nếu không được như thế cũng nên thuận lòng, vì thường tình, đứa con đối với một bà mẹ là tất cả, nhưng cha mẹ đối với những đứa con chỉ là một phần nối tiếp của cuộc đời. Về già, tôi mới nhận ra tôi là đứa con bất hiếu, và mỗi khi tôi muốn trách con cái một điều gì, tôi thường nhận ra những khiếm khuyết của mình đối với cha mẹ ngày xưa, đành diện bích, đối bóng mà nghĩ lại thân mình, không khỏi thấy lòng hổ thẹn.

(1) “Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân”- La Tiên Sinh)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2223)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2658)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2352)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2437)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2650)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2708)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2995)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2557)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3001)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2386)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2688)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant