Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kho tàng lòng tốt

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12159)
Kho tàng lòng tốt

KHO TÀNG LÒNG TỐT

Nguyễn Thế Đăng

blankNếu có một cái gì mà khi gặp bất cứ người nào, dù nam hay nữ, già hay trẻ, chúng ta có thể “rút từ trong túi ra” trao tặng ngay cho người ấy, thì cái đó chính là lòng tốt. Chưa chắc chúng ta có thể trao cho trọn vẹn bằng ngôn ngữ, vì đôi khi không rành tiếng của người đó; chưa chắc có thể trao cho tri thức, vì cần có trình độ tương đương giữa hai người; cũng chưa chắc chúng ta có thể trao cho tiền bạc, giúp đỡ cơ hội, vì lỡ người đó giàu cóthế lực hơn thì sao? Những sự trao cho đều đòi hỏi điều kiện, chỉ có lòng tốt là không cần điều kiện. Và cái gì không cần điều kiện, cái đó được gọi là tự do (người phương Tây dịch chữ giải thoát của Đức Phậttự do). Tự do có nghĩa là không lệ thuộc vào nguyên do nào ngoài chính nó.

 

Chúng ta thấy người phương Tây mở miệng ra là xin lỗi, cám ơn, cho phép… Đó là cách biểu lộ lòng tốt ra trong ngôn ngữ hàng ngày. Đó cũng là cái lịch sự, văn minh của người phương Tây. Khi mục tiêu của chúng ta là hướng tới một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, thì xét kỹ, cả ba khái niệm trên đều có nền tảng là lòng tốt. Dầu có bao nhiêu luật lệ, nhưng nếu khônglòng tốt đằng sau những luật lệ ấy thì chúng ta dễ dàng o ép người khác khi họ yếu thế hơn.

Sẽ không có công bằng nếu khônglòng tốt. Dầu có bao nhiêu quyền cho con người, nếu khônglòng tốt, chúng ta dễ dàng nhũng nhiễu, thậm chí “hành” người dân. Pháp luậtdân chủ chỉ thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của nó khi thực sự có lòng tốt giữa con ngườixã hội. Và ngay cả theo quan niệm của phương Tây, văn minh không chỉ là nhà cao cửa rộng, xe tốt mà còn là sự đối xử văn hóa giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, giữa từng cá nhân với chính mình dựa trên lòng tốt.

Chúng ta thấy mọi tệ nạn xã hội đều do thiếu lòng tốt. Tham nhũng, dù dưới bất kỳ hình thức nào, là do thiếu lòng tốt đối với đa số dân chúng còn khó khăn nghèo khổ; tai nạn giao thông vì chạy ẩu, say rượu, xe không an toàn: không có lòng tốt nghĩ đến những người trên xe và giữa đường; thực phẩm xuất khẩu bị trả về vì có chất độc hại quá mức cho phép: không có lòng tốt nghĩ đến sức khỏe người khác, ai chết mặc ai miễn có lợi nhiều là được; xì-ke, Si-da: không có lòng tốt với chính thân thể mình và với cộng đồng. Điều ngược lại cũng dĩ nhiên: tất cả những gì tốt đẹp trên đời đều do lòng tốt mà có.

Tôi có một người bạn tu sĩ trẻ hiện đang sống ở Canada. Những năm trước khi xuất gia, anh đọc nhiều sách Phật giáo, nhưng khi về quê Nha Trang thăm mẹ, anh thường rủ bạn bè đi ăn ở những nhà hàng ven biển, đủ mọi hải sản tươi sống, thích con gì thì vớt lên. Một hôm đang đứng nơi trạm chờ xe bus ở Canada, anh thấy một cô gái phương Tây chạy vội ra đường gắp một con sâu đang bò giữa đường bỏ vào bụi cây bên lề, từ đó anh không hề dám tới những nhà hàng “tươi sống” ấy nữa.

Vài năm sau, khi trên đường đi đến một tu viện Dharamsala của Kalu Rinpoche, anh chán nản muốn trở về, vì khí hậu khắc nghiệt, vì bị trộm cắp, vì tình trạng lộn xộn bất ổn ở Ấn Độ. Đang ngồi thừ người trong phòng trọ tồi tàn, thì thấy một em bé gái Ấn Độ bước vào, tay cầm trái cam, em bóc vỏ trái cam và đưa mời anh. Kết quả là anh ở lại Ấn Độtiếp tục lên đường về phương Bắc.

Lòng tốt tạo ra những điều kỳ diệu, những phép lạ. Như trong các truyện cổ tích Việt Nam, có những ông già râu tóc bạc phơ, những bà tiên, ông Bụt…, tất cả đều là sự hiện ra để cứu giúp, đem lại may mắn, phước lành. Suy nghĩ sâu xa, tất cả những cái gọi là rủi ro, bất hạnh xảy ra cho mình trong cuộc đời đều là do thiếu lòng tốt. Câu nói “Chỉn Bụt là lòng” của vua Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo phú (hội thứ ba) hẳn là chúng ta chưa hiểu hết và chưa khai thác hết dù cho đến cả những thời đại tương lai.

Mỗi người chúng ta đều có kho tàng lòng tốt nơi mình. Chúng ta biểu lộ, thể hiện nó ra bao nhiêu thì chúng ta sẽ khám phá ra nó bấy nhiêu. Và khám phá ra lòng tốtkhám phá ra chính con người mình. Khám phá con người mình - đây là mục đíchý nghĩa của đời người - là khám phá ra lòng tốt ở trong lòng mình. Và càng thể hiện lòng tốt ra bao nhiêu, người ta càng khám phá ra chính mình, càng làm đẹp cho cuộc đời mình (mà từ ngữ Phật giáo gọi là “trang nghiêm”) bấy nhiêu. Đó cũng là con đường của hạnh phúc, của hài hoà, với tất cả mọi người, mọi vật.

Tận trong đáy lòng mỗi người là một kho tàng lòng tốt. Khổng Tử đã nói: “Có lòng nhân là người vậy” (Nhân giả, nhân dã). Đức Phật đã nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Nếu chúng ta biết sử dụng lòng tốt, khai thác nó, thể hiện nó thì chúng ta sẽ biến cuộc đời chúng ta và những người, những vật chung quanh thành một môi trường hạnh phúc an vui.

blankCó một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt. Một năng lượng có thể biến cải tâm hồn con người - điều mà tất cả những năng lượng vật chất khác không thể nào làm được - biến thế giới này thành một thế giới đáng sống, biến con người thành những nhân cách muốn được sống cùng, đó là lòng tốt. Đây là một cuộc cách mạng không đòi hỏi gì (vũ khí, nguồn vốn tư bản, nguồn vốn tri thức…), nó chỉ nằm nơi quyết định và hành động của mỗi chúng ta.

Chúng ta có quyền, vì không ai có thể ngăn cấm, biến cuộc đời chúng ta thành một sự thể hiện của lòng tốt, nghĩa là của hạnh phúc, và có quyền biến cả thế giới này - thậm chí cả vũ trụ này - thành thế giới của lòng tốt: thế giới nơi lòng tốt lưu thông, nơi lòng tốt giao thiệp, nơi lòng tốt trao đổi, gặp gỡ, đối thoại, nơi lòng tốt làm chính trị, thương mại, kinh tế, xã hội…, nghĩa là một nơi vinh danh cho con người, thế giớithiên nhiên, mà không cần đặt tên nơi đó là Niết Bàn, Thiên Đàng hay cần phải mang tên bất kỳ một chủ nghĩa hoặc tôn giáo nào.

Nguyễn Thế Đăng
(Tạp chí Văn hóa Phật giáo)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2761)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2541)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2665)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2538)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2420)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2474)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2555)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2654)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2616)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3075)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2810)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2624)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2695)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3277)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2565)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2956)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant