Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nữ Phật tử xuất cách tại Ấn Độ cổ đại

27 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 13126)
Nữ Phật tử xuất cách tại Ấn Độ cổ đại

NỮ PHẬT TỬ XUẤT CÁCH TẠI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Rupali Mokashi
Dịch Việt Sư cô Viên Ngạn

Theo kết quả điều tra dân số năm 2001, Ấn Độ quê hương của Đức Phật, hiện là quê hương của 3.881.056 nữ Phật tử (1). Hiện ước chừng có khoảng 300 triệu nữ Phật tử trên thế giới, trong đó 130.000 vị Ni. Cộng đồng ngày càng lớn mạnh này có một vị trí rất đáng tự hào trong một truyền thống mà ở đó Ni giới và nữ Phật tử từ rất lâu đã là một bộ phận không thể tách rời của Tăng già, gần như ngay khi Tăng già được thành lập. Tuy vậy, ngoài những câu chuyện cảm động được kể lại trong Trưởng lão Ni kệ (2), một cuốn sách trong đó các vị Tỳ kheo Ni tiền bối kể lại quá trình nỗ lực cố gắng và những thành quả mà các vị đã đạt được trên bước đường tới quả vị A La Hán, không có một chứng cứ lịch sử nào được chứng minh. Kết quả là, ghi chép về những đóng góp của nữ giới Phật giáo giờ chỉ còn lại trong những nhân vật văn học của Trưởng lão Ni kệ.

Vai trò của những người phụ nữ Ấn Độ thuở xa xưa, những người đã theo truyền thống Phật giáo vượt thời gian, giờ được xác định chủ yếu bằng cách phân tích các nhân vật nữ nổi tiếng trong các tác phẩm văn học hoặc những giới luật được ghi lại trong kinh điển, và như thế là đã lướt qua những phụ nữ “thật”, đến nỗi mà sự bảo hộ và những đóng góp nhằm xiển dương Phật giáo của họ hầu như không được đề cập tới. Đây là một khiếm khuyết lớn trong lịch sử Phật giáo


Chính vào thời ký Maurya, Phật giáo nổi lên như một tôn giáo riêng biệt với tiềm năng phát triển lớn lao. Hoàng đế A Dục khởi đầu truyền thống khắc các bản kinh văn, một truyền thống trở nên rất phổ biến tại Ân Độ sau đó (3). Nhiều bia khắc của các thí chủ Phật giáo giúp chúng ta xây dựng một khuôn mẫu chính xác hơn để có thể hiểu thêm về những tín đồ Phật giáo, đặc biệtphụ nữ. Một cuộc khảo sát những bia khắc ra đời trong khoảng thời gian kéo dài từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ 12 sau Công nguyên được phát hiện ở cao nguyên Deccan (4) đã hé mở cho chúng ta thấy những đóng góp của hơn 300 phụ nữ, bao gồm cả Ni giới và nữ Phật tử. Mặc dù sự đóng góp của tất cả những người phụ nữ này đều đáng chú ý, bài tham luận này sẽ tập trung khắc họa một vài người phụ nữ xuất cách thuộc những giai tầng xã hội trong xã hội Ấn Độ cổ đại những thế kỷ đầu sau Công nguyên, những người đã góp phần rất lớn cho việc truyền bá đạo Phật


Một dòng khắc trên cột trụ A Dục nổi tiếng ở Alahabad có nhắc đến Karuvaki, thứ hậu của Hoàng đế A Dục (5). Bà là nữ Phật tử đầu tiên mà tên tuổi được nhắc tới rõ ràng trong các bia khắc Ấn Độ. Bia khắc này, cả về mặt hình thức lẫn nội dung, là một chiếu chỉ vua ban xuống, lệnh cho các quan đại thần ghi chép lại việc cúng dường của bà. Bia khắc này vì thế được gọi là “Sắc lệnh cột trụ Hoàng hậu”. 


Nhiều phong cách kiến trúc khác nhau xuất hiện với sự lan truyền của Phật giáo và sự phát triển thương mại mạnh mẽ giữa Deccan và thế giới phương Tây bắt đầu vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Những kiến trúc này bao gồm các bảo tháp, chùa chiền với cấu trúc mái vòm, các tịnh xá trong các dãy núi Sakyadri tại Karle, Bhaje, Nasik, Junnar và các địa điểm khác. Sự cần thiết phải có nơi thờ phụng và chổ ở cho chư Tăng Ni đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng của các phong cách kiến trúc này. Các bia khắc cho chúng ta biết rằng những thành tựu kiến trúc đã đạt được là nhờ một phần vào các khoản cúng dường của nhiều phụ nữ thuộc các giai tầng xã khác nhau. Chúng ta có thể thấy rằng các vị hoàng hậu, cư sĩ, nữ tu và thậm chí cả những kỹ nữ hạng sang cũng đóng góp theo khả năng tài chính của mình. Bảo tháp Sanchi tuyệt đẹp ra đời nhờ sự đóng góp của 87 tín đồ nữ. Trong số này chỉ có một người, Vakalaye Devi, dường như là một phụ nữ hoàng gia; những người còn lại gồm 36 ni cô và 50 nữ cư sĩ. Sondegve, vợ của Siharakhita (6); Naga, vợ của Kamdadi Gamiya Sethin (một thương nhân từ thị trấn Kandadi); Gharini Sijha, một phụ nữ nội trợ sống tại Virohakata; Sangharakshita, các nữ đệ tử (7) của Yasila (8) và Tỳ kheo Ni Kadi đến từ Ujjaini (9) nằm trong số những vị ni và nữ cư sĩ đã cúng dườngtên tuổi được ghi khắc tại Sanchi. Tổng số nữ thí chủ được xác định thuộc hoàng tộc là 35, ít hơn nhiều so với con số nữ thí chủ cư sĩ 210 và 87 ni cô, điều này cho thấy cơ sở bảo trợ mạnh mẽ nhất của Phật giáo thời kỳ ấy là tầng lớp nào. 


Một bia khắc cho chúng ta thấy được tình hình kinh tế của thời đại đó cũng như tài kinh doanh của một nữ cư sĩ có tên Vishnudatta, người đã lên kế hoạch và đầu tư tiền cúng dường của Tăng đoàn để sinh lời, làm lợi cho Tăng đoàn khoảng 1.700 năm trước. Vishnudatta Shakanika là con gái út của Saka Agnivarman và là vợ của Ganapaka (nghĩa đen của từ này là “kế toán”) Rebhila, và là mẹ của Ganapaka (cũng là một kế toán!). Trong hang số 10 ở Nasik, một người tên là Vishnuvarman được ghi nhận là có đóng góp tiền để ủng hộ Phật pháp (10) vào năm 258 sau Công nguyên (11). Các khoản tiền này được cúng dường để lo việc thuốc men cho những vị Tăng bị bệnh trong cộng đồng các vị Tăng từ mọi nơi đến tu tập tại thiền viện núi Trirami (12). Từ khoản tiền này, Vishnuvarman đầu tư hơn 3.500 karshapana (13): 1.000 karshapana với phường nghề của Kularikas, 2.000 karshapana với phường nghề của Odayantrika, 500 karshapana với phường nghề của (ở đây tên bị mất), và một số tiền nữa với phường nghề của Tilapippaka (14). Thật thú vị khi biết rằng Vishnuvarman đã đầu tư với những phường nghề như Kularika (làm đồ gốm), tilapippaka (bán dầu), Odayantrika (chế tạo thiết bị thủy lực) v.v… Tiền lãi tư những khoản đầu tư này được chuyển tới Tăng đoàn (15).


Bia khắc Lavanika tại động số 75 tại Kanheri (16) được xác định niên đại vào đầu thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Bia khắc thú vị này ghi lại khoản cúng dường của Lavanika tại hai nơi hác nhau, một là các hang động kanheri và hai là tinh xá Ambalika gần thành phố cổ đại Kalyan (17). Lavanika là vợ của một Ưu ba tắc tên là Sethi Achala quê ở Kalyan. Cô cúng dường hang động, bể chứa và một bể tắm để hồi hướng cho gia đình mình. Khoản cúng dường thứ hai được ghi chép lại là 300 kashapana dành cho các vị Tăng tại tinh xá Ambalika. Khoản tiền này được cúng dường để may y cho các vị Tăng sống ở đây (18). Vị trí của tinh xá này được ghi rõ trong bia khắc là “gần Kalyan”, nhưng vị trí chính xác của tinh xá này vẫn chưa được xác định. Vì Kanheri là một nơi nỗi tiếng, rõ ràng Lavanika đã chọn để khắc lại khoản cúng dường của Cô cho tinh xá Ambalika để nhiều tín đồ biết đến tinh xá này. 


Bia khắc tại hang động số 32 tại Kanheri đề cập đến một tu viện gần Kalyan. Bia khắc Brahmi này được xác định niên đại vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Một thương gia tên là Dharma, Kaliyanaka (cư dân thành Kalyan và là con trai của Sivamitra) cùng với Budhaka và toàn thể gia đình người này cúng dường một ngôi nhà, hai căn hộ và một phòng ăn cho một tinh xá tại Kalyan trong một khu vực có tên gọi là Gandharikabhani (19). Vào những thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, do hoạt động kinh doanh phát triển hưng thịnh, nhiều người Tây Á và các cộng đồng thương gia Hy Lạp, La Mã đã đến định cư tại Tây Âu. Các bia khắc cho thấy nhiều người phụ nữ gốc nước ngoài đã theo đạo Phật, trở thành những Phật tử thuần thành


Không giống như Kamheri, nơi một số lượng lớn các thí chủ xuất thân từ thành Kalyana, tại Karle phần lớn các thí chủ là cư dân thành Dhenukakta. Nhiều người trong số này là những người Yava (20), cũng là những tín đồ Phật giáo. Chùa vòm kỳ vĩ tai Karle (21) có ghi lại khoản cúng dường của Mahamata, vợ của (người bị mờ mắt) quê ở Dhenukakata, được khắc trên cột trụ thứ 10 hàng bên trái (22). Có khả năng Mahamata là người gốc Hy Lạp, vì những khoản đóng góp của các thí chủcư sĩ nam người Hy Lạp cũng được ghi lại ở cột trụ này. 


Ngoài ra, còn có những bia khắc ghi lại sự tồn tại của các thí chủ là nữ tu. Theo Giới luật Phật giáo, các tu sĩ khổ hạnh không thể sở hữu tài sản, vì vậy rất có thể họ đã tích lũy kinh phí để xây rường và cột chùa bằng cách đi hóa duyên. Không nghi ngờ gì, họ được phép làm điều này, vì việc làm này có mục đích đúng đắn (23). Kết quả là, các khoản đóng góp của một số lượng lớn của các nữ tu đã được ghi nhận ở nhiều nơi thiêng liêng. Điều này làm nổi bật sự khác biệt giữa các nữ tu sĩ dòng Jain và những nữ tu sĩ Phật giáo. Các bia khắc cho thấy, mặc dù các nữ tu Jain có gây ảnh hưởng đến một số lượng lớn tín đồ khuyến khích họ đóng góp cho các công trình tôn giáo, điều này được ghi lại rõ ràng trong các bia khắc về các khoản đống góp, những nữ tu sĩ Jain hiếm khi được ghi nhậnthí chủ chính. Ngược lại, các nữ tu Phật giáo như ni cô Pavatika Ponakisama (24) và Tỳ kheo Ni Damila (25) được ghi nhận là đã đóng góp tại các địa điểm khác nhau. 


Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama. Amrapali là một kỹ nữ nổi tiếng cư trú tại Vaisali, thủ phủ của nước cộng hòa Vriji. Việc những kỹ nữ bảo trợ Phật pháp trở thành một truyền thống kéo dài nhiều thế kỷ. Một bia khắc tại Sannati (26) có niên đại được xác định vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên có nhắc đến một vũ nữ có tên Govidasi (27). Vũ nữ này đã cúng dường để xây hàng rào vây quanh một tinh xá. Một bia khắc khác từ Sannati cùng niên đại với bia khắc trên có nói đến một vũ nữ khác có tên Aryadasi (28), con gái của Nadiya Guda và Nati Valuki đã cúng dường để xây phòng đón khách tại một tinh xá


Nhìn chung, câu chuyện về lịch sử Phật giáo sẽ không đầy đủ khi chúng ta không hiểu về đóng góp của những nữ tín đồ đầy khả năng và tự tin. Mặc dù những người phụ nữ này sống trong các khoảng thời gian, các khu vực địa lý và thuộc về các tầng lớp xã hội cũng như có điều kiện kinh tế khác nhau, họ có một điểm chung: một sự thẩm thấu sâu sắc và sự tha thiết hết mực đối với những lời dayh của Đức Phật./. 

 

Người dịch: Sư cô Viên Ngạn 
(Theo tư liệu Hội nghị Sakyadhita thế giới lần thứ 12 tại Thái Lan)

Chú thích: 
(1) http://wcd.nic.in/start/pdf 
(2) Trưởng lão ni kệ hay Therigatha được tìm thấy trong Tiểu bộ kinh, một tập hợp các bản kinh trong Tạng kinh. Trưởng lão ni kệ gồm 73 bài thơ được sắp xếp thành 16 chương. 
(3) A Dục là một vị hoàng đế của triều đại Maurya của Ấn Độ. A Dục cai trị gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ từ 269 – 232 trước Công nguyên
(4) Về mặt địa lý, Deccan là một cao nguyên lớn giáp biển Ả Rập về phía tây vịnh Bengal dưới sông Narmada về phía đông. Khu vực này gọi là Dakshinapatha trong tiếng Phạn. 
(5) Biên niên sử của Viện nghiên cứu phương Đông Bandhakar, cuốn 34, tr. 30; Corpus Inscroptionum Indica tập hợp các bia khắc Ấn Độ I-II-VI-B, p.159
(6) Epigraphia Indica Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, p.27, n. 177
(7) Lịch sử tạng Luật Phật giáo II-I, p. 272
(8) Epigraphia Indica Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, p.33, n. 245
(9) Ibid, p. 31, n. 226
(10) Epigraphia Indica 10, tr. 127 và Epigraphia Indica IV, tr. 114
(11) Bản bia khắc được xác định niên đại vào triều vua Ishvarasena dòng tộc Abhira. 
(12) Tập hợp các bia khắc Ấn Độ Corpus Inscroptionum Indicarum 4, tr. 114
(13) Karshapana là loại tiền xu đúc từ bạc, mỗi xu nặng 34 grain. Loại tiền Karshapana được nói đến ở đây có lẽ là loại tiền kshatrapas miền Tây Ấn, dường như đã lưu hành tại tiểu bang Maharashtra trong thời cai trị của dòng tộc Ahbiras.
(14) Tập hợp các bia khắc Ấn Độ Corpus Inscroptionum Indicarum 4, tr. 114 và nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, số 1137, tr. 127
(15) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 127
(16) Các hang động Kanheri là một quần thể di tích nằm ở phía bắc của Borivalion ở phía tây ngoại ô thành phố Mumbai. Những hang động này được xác định niên đại vào thế kỷ thứ I trước Công nguyên đến thế kỷ thứ IX sau Công nguyên. Tổng cộng có 109 hang động được khoét sâu vào núi đá bazan.
(17) Kalyan cách Mumbai 53 Km về phía đông bắc.
(18) Các bia khắc Kanheri, tác giả Ghokhale Shobhana, tr. 98-101. Sự tồn tại của các tu viện dọc các tuyến đường thương mại cổ đại không phải là trùng hợp ngẫu nhiên.
(19) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 102, n. 998. Theo Ghokhale Shobhana, Gandharikabhami là một khu định cư của người Hy Lạp tại thành phố cổ Kalyan. Thậm chí ngày nay vẫn còn một dòng sông nhỏ có tên gọi là Gandhari, một nháng của sông Kalu, gần kalyan. Khu vực xung quanh cũng được gọi là Gandhari.
(20) Không có sự nhất trí về nguồn gốc dân Yava. Có những phóng thuyết khác nhau về quê gốc của họ, có thể là khu vực từ Ionia qua Tây Á.
(21) Chùa mái vòm này có từ thế kỷ thứ I trước Công nguyên và là một trong những chùa đẹp nhất loại này so với những hang động Phật giáo cổ xưa. Chùa gồm một bảo tháp lớn và 37 cột được trang trí lộng lẫy. Một bia khắc dựng ở chùa ghi rằng đây là hang động tuyệt vời nhất toàn cõi Diêm Phù Đề, và chùa được xây bởi Bhatapala, người cho vay lãi xứ Vaijayanti. Những hang động này nằm cách Mumbai 114 km. 
(22) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 7, tr. 52 và 83-84
(23) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 369
(24) Ibid, tr. 105, n. 1006. Danh vị khác của Ponakiasana, their (Trưởng lão ni), cho thấy phẩm bậc của Ni sư trong Tăng đoàn.
(25) Ibid, tr. 106, n. 1013. Cả hai vị ni đều cúng dường tại Kanheri.
(26) Sannati là một nhỏ bên bờ sông Bhimain Chitapurtaluk nằm ở quận Galbarga phía bắc tiểu bang Karnataka.
(27) I. K. Sarma và J. V. Rao, những bia khắc Bhrami đầu tiên ở Sannati, Nhà xuất bản Harman, New Delhi, 1993.
(28) Ibid

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2420)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2808)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2623)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2695)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3277)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2565)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2956)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant