Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật tử Việt kiều với sự ước vọng

02 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11705)
Phật tử Việt kiều với sự ước vọng

PHẬT TỬ VIỆT KIỀU VỚI SỰ ƯỚC VỌNG
Minh Mẫn

blankMùa hè nước Mỹ nóng không thua ở Việt Nam; vùng Hoa Thịnh Đốn đã như thế thì các bang gần sa mạc sẽ như lò bánh mì thôi. Nhưng ít ai phải chịu cái nóng như thế, vì trong nhà, máy lạnh 24/24, bước ra ngoài là lên xe cũng có máy điều hòa. Cộng đồng kiều bào không nóng bởi khí hậu nhưng nóng bởi nghiệp vận đất nước và vận mệnh Phật giáo.

Tin tức hàng giờ về tình hình biển Đông, về cuộc sống của ngư dân bị đe dọa, về tính ngạo mạn của Trung Quốc, về tính nhu mỳ tinh tế của lãnh đạo Việt Nam, về xáo trộn vô đạo đức của xã hội… Cộng đồng Việt Kiều tuy sống trên xứ hòa bình, nhưng luôn nóng lòng hướng về quê mẹ. Bên cạnh đó, sinh hoạt tín ngưỡng trên đất khách cũng làm bức xúc không nhỏ cho số phận của một tôn giáo truyền thống VIỆT NAM đang lan tỏa trên đất cờ Hoa.

Truyền thống tín ngưỡng ăn sâu vào máu huyết của người con Việt. Từ thưở khai hoang miền Nam, quần chúng đi đến đâu, tự động lập chùa đến đó. Tuy miền Nam Việt Nam trên 300 năm tuổi, đã có trên 15 ngàn ngôi chùa. Miền cao nguyên đất đỏ thưở nhà Ngô di dân lập ấp, đa phần người miền Trung tay lấm chân bùn, cũng tạo dựng những ngôi Tam Bảo thô sơ để thờ phượng mặc dù chưa có tu sĩ; họ tự chăm sóc và cùng nhau tu tập. Như thế cũng không lấy làm lạ khi những người dân, lập cư trên đất âu Mỹ, họ góp công tích của để xây dựng cơ sở thờ tự. Có những nơi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo luật pháp Hoa Kỳ, họ tạm thời mua nhà dân để làm nơi thờ phượng.Có những chùa như Từ Liên, Atlanta, tuy diện tích 5 mẫu, xây dựng chưa có đủ khoảnh đất đậu nhiều xe hơi khi có lễ lộc, cũng chưa được sinh hoạt công cộng. Điều nổi bật số di dân người Việt theo đạo Phật, không những giới bình dân, mà ngay cả giới trí thức được đào tạo từ nền giáo dục của Mỹ như Bác sĩ, kĩ sư, chuyên gia… và một số sĩ quan thời Việt Nam Cộng Hòa, không xuất gia thì cũng là những tín đồ tại gia ngoan đạo. Những thành phần nầy tuổi ngoài 60, một khi họ hướng về Phật, họ gạt bỏ mọi tị hiềm chính trị, mọi bon chen thế gian để sống cuộc đời mẫu mực của một Phật tử tại gia. Có những em sinh viên, thanh niên du học, họ cũng tìm đến chùa cách xa hàng trăm km vào ngày nghỉ hoặc cuối tuần. Họ tự tìm học giáo lý qua website, băng dĩa và sách vở. Những thời khóa tu tập và các buổi giảng do các tu sĩ được thỉnh mời từ các bang xa xôi, họ tham gia nhiệt tình. Trên đất nước rộng mênh mông, người ở gần chùa cũng phải 15km, thường thì rất xa. Có những Phật tử bên Canada hoặc Úc, cũng bay qua tham dự các khóa tu do các danh Tăng hướng dẫn. Thường thì họ tham dự để nhìn đời sống thanh tịnh của Tăng sĩ, học hỏi thân giáo hơn là kiến thức Phật học. Tâm lý chung của các Kiều bào – xa quê hương, sau những ngày giờ chật vật với công việc, trống vắng lúc con cái không sống chung với cha mẹ khi đã tự lập, họ quá mệt mỏi với mọi sự quá khích, và những mất mát đau thương trong quá khứ như giấc mộng kinh hoàng, họ học thuộc bài học ngàn đời về sự vô thường của kiếp sống, họ quay về chùa như quay lại với niềm tin tiên tổ mong có điểm tựaan ủi tâm linh, vì thế Tam Bảo là mỏ neo níu kéo họ giữa cuộc sống thực dụng của xã hội mà họ cảm nhận thiếu tình liên đới ruột thịt.

Số tu sĩ hiện diện chưa đáp ứng đủ với sự mong mỏi của quần chúng, và số lượng Tăng sĩ trên xứ người cũng thiếu nhất quán trên tinh thần Lục Hòa của đạo Phật. Nhiều khuynh hướng khác nhau do tác động thời cuộc, dẫn đến nhiều tổ chức Giáo hội khác nhau ra đời, vì thế Tăng đoàn Phật giáo hải ngoại trở thành những mảnh vỡ phản ảnh những bộ mặt dị dạng của Phật giáo Việt Nam. Trong khi các giáo đường Kito vắng bóng màu cờ chế độ cũ theo lịnh Vatican thì một số chùa Việt Nam vẫn còn bị áp lực một biểu tượng quá khứ đó đè nặng trong sinh hoạt cộng đồng. Quần chúng quá ngán ngẫm, chính vì thế họ trân quý sự tu tậpthuần túy tín ngưỡng tâm linh như một gia bảo của đời mình.

blankMột số tu sĩ trẻ bị cuốn hút bởi vật chất, một số ít danh Tăng hấp dẫn khá đông quần chúng bởi nhiều thủ thuật khác nhau do khéo che đậy được những vi tế trong Danh-lợi-tình. Có những vị hướng dẫn giáo lý chưa đủ nghĩa để tương thích với căn cơ thính chúng, cũng có vị đem cả lý số dịch học, địa sinh học của Trung Quốc vào dạy song hành với việc tu tập. Dĩ nhiên đó chỉ kích thích tính tò mò của đại chúng chứ không thể tương thích với giáo lý giải thoát của đạo Phật, Phong thủy, bói toánthế gian pháp làm sao giúp quần chúng cần tu học xuất thế gian pháp? Chẳng những thế còn có thể làm chướng ngại việc tu tập. Những khóa tu học nơi giảng đường phải mướn từ các trường học hoặc các điểm công cộng, vì các chùa không đủ chỗ, và vị giảng sư như thế không phải cư dân địa phương mà họ đến từ các bang xa xôi khác, họ có đạo tràng, có máy móc quay phim, bán băng dĩa đi theo phục vụ như một dịch vụ doanh nghiệp. Có giảng sư xuất thân từ tông phái Đài Loan hoặc được tu học bởi các chân sư Tàu, khi giảng cho người Việt, mặc dù họ là người Việt, họ vẫn buộc thính chúng tụng đọc tiếng Tàu như họ, trong khi trên màn hình có cả âm Tàu, tiếng Anh và tiếng Việt. Một số hãnh diện thích thú khi tụng đọc tiếng nước ngoài, một số vị cao tuổi họ chỉ quen với kinh chữ Việt. có người không thích như thế. Trong thời khóa tu có cả hướng dẫn thao tác thể dục lấy từ trang mạng. Có người nói đùa – đến để nghe pháp tu học chứ đâu phải để tập thể dục, các khóa huấn luyện thể dục ngoài đời còn chuyên nghiệp và đầy đủ hơn thế, cần gì phải đến đây. Nếu học phong thủy địa lý thì tìm thầy chuyên môn mà học, chuyên nghiệp hơn kiểu qua loa không đâu vào đâu như vậy. Dạy tu học Phật mà xen tạp đủ loại pháp thế gian như cơm chiên thập cẩm như thế chiếm hết thời gian, làm giảm mục đích chính việc tu tập. Tìm những vị giảng chuyên sâu vào giáo lý quả là rất hiếm. Những vị chân tu thật học quá ít trong khi quần chúng tín đồ khát khao giáo pháp. Kinh tế thị trường và tiếp thị len sâu vào Phật giáo qua ngõ hoằng pháp. Chính vì thế, cộng đồng kiều bào mong có một tổ chức thống nhất Phật giáo để việc tu học không bị pha tạp. Việc này không bao giờ có, kể cả thời cực thịnh của Phật giáo, vẫn chưa có một sinh hoạt và tu học thống nhất. Phật tử trong nước ngao ngán tu sĩ thế nào thì ở hải ngoại, phần lớn tu sĩ cũng tạo sự thất vọng trước khát vọng của họ như thế ấy. Một ước vọng duy nhất của quần chúng hải ngoại là cần một tu sĩ chân chính, không bị vật dục cám dỗ, có thể không cần một Tăng sĩ có kiến thức uyên bác, không nhất thiết phải một kinh sư giỏi nghi lễ, cũng không hẳn phải là một tu sĩ giảng hay có sức ru ngủ; hình ảnh một bậc chân tu không nặng tiền của, không sống xa hoa, không tiền hô hậu ủng, không tư hữu quả là không tưởng đối với họ. Nói thế không có nghĩa là không có những bậc chân tu, vì họ chưa đủ duyên gặp thôi. Một số quần chúng thích âm thinh sắc tướng, chư Tăng đủ để đáp ứng, thích giảng sư hoa hòe hoa sói nói đùa mua vui mà không đi sâu vào giáo lý, cũng không thiếu. Muốn một giảng sư uyên bác kiến thức lại càng không khó. Những hình thái như thế, tín đồ hiểu đạo và chuyên hành trì công phu họ không cần thiết. Nhu cầu của họ cần một Tăng tướng nơi thân giáo chứ không chỉ ở khẩu giáo. Rất may trên đất khách chưa xuất hiện dạng thầy cúng với giá cả không thương lượng. Trong xã hội Việt Nam, kinh tế thị trường có thể du di- thuận mua vừa bán, cò kè bớt một thêm hai, nhưng ma chay theo Ngọ thì không có vấn đề kèo nèo thêm bớt.

Quần chúng cũng xót xa khi thấy các sư Việt Nam sống xa hoa chung quanh quần chúng còn nghèo đói. Người không làm ra của cải mà hưởng thụ trên những của cải sang trọng. Trong khi đó, trách nhiệm hoằng truyền cho tín đồ đói pháp nơi vùng xa, vùng sâu lại không hề quan tâm, chuyện đó nhường cho ngoại giáo thực hiện. Chùa đua nhau phát triển như loại hình kinh doanh thời đại, đó không phải là tín hiệu một Phật giáo hưng thịnh, bởi lẽ tư chất của tu sĩ đang thiếu một nội lực cần thiết. Nếu một tu sĩ không có nội lực mà chỉ phát triển ngoại hình, tu sĩ sẽ là một trong những giai cấp thượng tầng của xã hộilịch sử tôn giáo thế giới đã từng kinh qua, như Bà La Môn từng là giai cấp giáo sĩ liên kết chặt chẽ với giới cầm quyền.

Quần chúng tín đồ tuy than vãn mà vẫn cứ nhắm mắt cung phụng những vị mà họ có cảm tình. Than trách giai cấp tu sĩ mà lỗi phần lớn chính phát sanh từ tín đồ mù quáng. Những thập niên 1930 khi cư sĩ đứng ra nỗ lực chấn hưng Phật giáo để rồi sản sanh hàng loạt Tăng tài cung ứng cho giáo hội sau khi đất nước chia hai. Chính những Tăng tài đó đã đưa Phật giáo thoát khỏi ách nạn thời đại 1963. Sau 1975, các bậc cao đức lần lượt về với quá khứ, để lại một khoản trống quá lớn cho Phật giáo Việt Nam. Khi các trường Phật học được phục hồi, học viện Phật giáo đã cung ứng cho Giáo hội một số rất ít những Tăng Tài giữa hàng ngàn Tăng ni sinh tốt nghiệp và hàng trăm tu sĩ xuất dương du học với một mớ bằng cấp cao ngất. Có lẽ lúc nầy cư sĩ phải tiếp tục gánh lấy trách nhiệm cùng với chư Tăng chấn hưng đạo Phật. Tín đồ không chỉ là người hộ pháp cung ứng vật chất cho Tam bảo, tín đồ vẫn là thành viên của Tăng già trong tứ chúng của đạo Phật, vì thế, Phật giáo hưng suy, tín đồ có một phần trách nhiệm. Việc cung ứng vật chất quyết định việc nên hư của các tu sĩ trẻ. Một tu sĩ vào đời được quần chúng cung phụng sùng bái như Thánh sống, họ sống trên của cải không do mồ hôi công sức họ làm ra thì tuổi non trẻ đó chưa biết trân quý tấm lòng của quần chúng và tương lai của một Phật giáo, vì họ chưa ý thức được trách nhiệm vô hình của một sứ giả Như Lai. Những tín đồ tại gia, trong nước cũng như ngoài nước, bản thân không dám tiêu xài, vợ chồng con cái cũng dè xẻn từng đồng để cúng dường chư Tăng; có người ở khu nhà ổ chuột, lao động chân tay, thế mà việc tiêu xài của một số Tăng sĩ, từ vật dụng nhỏ như cell phone, thuốc lá đến bất động sản, đều là những loại cao cấp trong xã hội. Một hành khất không dám ngửa tay xin tiền một tu sĩ ngồi trên xe đời mới lúc ngừng lại ngã tư. Vậy Tăng sĩ ngày nay là thành phần nào trong xã hội? Hình ảnh một thanh niên ăn chơi sa đọa, hưởng thụ phung phí trong một gia đình rách nát, nói lên tinh thầntrách nhiệm với gia phong, một Tăng sĩ cũng thế, do gia đình dung dưỡng quá mức thì tín đồ cũng quá mức cung phụng mà không cần biết tu sĩ đó xử dụng đồng tiền vào việc gì cho Tam bảo.

blankTệ nạn phần lớn ở đất Mỹ, tu sĩ nặng tâm vì tiền, vì thế bằng mọi cách phải có tiền, muốn thế, phải lập chùa, một khi có chùa là có bao nhiêu nhu cầu và áp lực khác về sinh hoạt xã hội và nghĩa vụ thuế má. Cái vòng lẩn quấn cuốn hút biến tu sĩ thành những nhà sáng tạo kinh doanh không vốn. Thế là thủ thuật hoằng pháp, gây quỷ dưới mọi hình thức, khai thác tâm lý quần chúng một cách tinh vi mà ít ai biết. Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra nhưng chưa bao giờ có đáp án khả dĩ, vì muốn thanh lọc, canh tân trong giới Tăng sĩ, cần phải có một vị đủ uy đức; Tại Âu Mỹ, mỗi vị thượng thủ đều cát cứ một tổ chức, một giáo hội với những danh xưng khác nhau, không ai phục tùng ai. Trong nước, tuy có hệ thống Giáo hội duy nhất, những chức sắc càng cao thì uy tín càng thấp bởi thân giáo bất cập với ngôn hành. Tăng niquần chúng cũng thiếu niềm tin. Chính vì thế, phương cách canh tân nội tình Phật giáo của 1930 không thể áp dụng trong thời đại vật chất quyết định xã hội ngày nay. Cho dù kinh tế đại chúng của xã hội tư bản hay kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ nghĩa cũng đều là cơn lốc cuốn hút mọi người con Phật chưa biết dừng lại. Tinh thần “Tri túc” của Phật giáo, các tu sĩ ngày nay chưa biết đâu là đủ thì “Tam thường bất túc” của một hành giả khó mà thực hiện.

Phát triển xã hội, phát triển tôn giáo… y cứ trên vật chất, lấy kinh tế làm thước đo thì việc chấn chỉnh Tăng thân cũng phải từ phương tiện vật chất song song với kế hoạch giáo dục. Nội tình giáo hội áp dụng giáo chế đối với tu sĩ thì hàng ngũ cư sĩ cũng phải biết điều tiết hợp lý trong việc cúng dường, bởi lẽ mọi sự cúng dường không phải đều là hợp lý khi mà người sử dụng đồng tiền không đem lại hiệu quả cho Tam bảo và giúp tu sĩ có một nhân cách xứng đáng. Xã hội Cộng sản xa xưa quản lý bao tử quần chúng để điều hành đất nước thì việc quản lý kinh tế chặt chẽ trong việc cung ứng cho tu sĩ cũng giúp cho họ biết xử dụng đồng tiền mồ hôi nước mắt của tín đồ, một cách hợp lý. Nội quy Làng Mai áp dụng cho tăng thân cũng như các cộng đồng tu viện chân chánh của Phật giáo trong một số quốc gia đều hạn chế việc tư hữu, điều nầy giúp cho hành giả không vướng bận vật chất, chuyên tâm vào việc tu tập hiệu quả hơn. Luật Phật cũng không cho tu sĩ chất chứa tiền của ngoài “tam y nhất bát”. Khi có tư hữu là lòng tham phát sanh, từ đó bản ngã cũng tồn tại, cho dù vi tế. Một tu sĩ thuộc hàng đại gia thì việc tiếp xúc với quần chúng cũng khó mà bình đẳng, kẻ nghèo khốn khó mà được thầy lắng nghe. Ngay cả một tổ chức nghiêm túc như Kito giáo Vatican, một vị thụ phong Linh mục đều có lời khấn về đức “nghèo khó” thế mà các Linh mục Triều ở các giáo xứ “khó mà nghèo”, vậy một tổ chức lỏng lẻo như Phật giáo cũng không thể đòi hỏi tu sĩ tri túc nếu bản thân vị đó không tự giác. Tuy nhiên, cũng không thiếu nhiều bậc chuyên tu ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm và một số ở thị thành, vẫn giữ được đời sống thanh bần.

Tín đồ là người hộ trì Phật pháp, phải cung dưỡng Tăng ni, nhưng cung dưỡng thế nào để tu sĩ không hư hỏng, biết rằng bản chất hư nên cũng do nhân thân của tu sĩ, nhưng ngoại lực cũng góp phần quan trọng. Nếu ngoại hộ không tạo duyên thì cái nhân xấu cũng khó phát triển. Cái ưu tư cho tiền đồ Phật pháp ngày nay của phần lớn giới Trí thức Phật tử không chỉ than vãn với nhau mà phải giúp cho quần chúng bình dâný thức về việc hộ trì Tam bảo, trong đó vật chất là nền tảng phát triển mà cũng là nền tảng để hư hoại Phật pháp. Tại sao chư Tăng không nhập chúng mà mỗi thầy phải lập một ngôi chùa riêng biệt? Tiền của bá tánh bị phân tán mỏng như thế thay vì có thể đào tạo một tu sĩ hoàn chỉnh cả mặt kiến thức lẫn đạo đức hầu củng cố nội lức cho tiền đồ Phật giáo! Quyết định chỉnh đốn Phật giáo Việt Nam ngày nay trong cũng như ngoài nước, cư sĩ có một ý thức đóng góp rất quan trọng. Đó là lối thoát hiện nay.

MINH MẪN
Virginia 30/7/2011

Hình bên trên: (từ trên xuống dưới)
(1) Một buổi cúng dường trai tăng
(2) Thích Trí Long trụ trì một ngôi chủa ở Texas trả lời cáo buộc với ban trị sự (Linh Sơn An Lạc Viện)
(3) Lễ Phật Đản 2009 tại TP. Westminster California

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13208)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13372)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 13980)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13214)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13621)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13284)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13191)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 12941)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12505)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14115)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12409)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 12978)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13328)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 12571)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13253)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13108)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19434)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13355)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13520)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17666)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14089)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12943)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14025)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12137)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11873)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13078)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13365)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11928)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17032)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12394)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12716)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12292)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13989)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12369)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11727)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12474)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12961)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13060)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12257)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12307)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11707)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11771)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12092)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13119)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12649)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13107)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11674)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14889)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
(Xem: 13857)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
(Xem: 14017)
Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant