Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con đường đã chọn

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12385)
Con đường đã chọn

CON ĐƯỜNG ĐÃ CHỌN
Cư sĩ Minh Mẫn tường trình từ Washington DC

Sáng 09/7/2011, Đức Đạt Lai Lat Ma đến sân cỏ trước toà nhà Quốc Hội Mỹ lúc 10.30 để nói chuyện với lượng số quần chúng gần 30 nghìn người.

blank

Nắng và nóng ở nhiệt độ 38, thế mà người Mỹ vẫn thản nhiên ngồi chờ từ sáng sớm.. Không bóng cây, không ô bạt. Ai đến sớm, đuợc vào trong khuôn viên rộng hơn một hecta. Bên ngoài là vòng rào luới nhựa và an ninh, một khoảng cách 5m, là đường đi và lối thoát hiểm, có thêm một vòng rào nữa, sau hàng rào đó là những thính chúng đến muộn vì không còn chỗ vào, họ ngồi đứng quanh khu vực gần toà nhà Quôc hội. Bên ngoài đường xe, cũng lô nhô bóng nguời thèm muốn đuợc vào bên trong; ngoài vòng cuối cùngan ninh mặc đồ đen, xe cứu thương, xe cảnh sát túc trực. Tại sân khấu, lực lượng an ninh đứng như trời trồng thì ngoài tượng đài vòng xoay giao lộ, mô tô an ninh chạy quanh như diễu hành. Bên kia đường là dãy nhà thùng vệ sinh di động gần 100 cái không đủ giải quyết cho hàng vạn nguời có mặt. Âm thanh lộ thiên đủ cho nguời ở xa 200m nghe, nhưng màn hình rộng chỉ những người ở tầm 150m mới nhìn thấy. Trong thời gian gần 5 tiếng chờ đợi Đức Đat Lai Lạt Ma xuất hiện, nữ Mc nguời da đen tỏ ra linh hoạt và chuyên nghiệp làm cho hiện trường nóng lên từng tràng vỗ tay tán thưởng. Nghệ sĩ Tây Tạng với điệu múa và trang phục truyền thống cũng đem lại cho quần chúng những thư giãn cần thiếtcảm thông. Mục đơn ca của người Tạng còn mang âm hưởng lai Tàu. Tất cả những tiết tấu, sắc màu y phục và âm ngữ chưa xoá nhòa nét văn hoá của tộc Tạng, một sắc dân thiểu số sống trên cao nguyên Hy Mã, gần với thiên nhiên cổ đại mà một thời, nền văn minh khoa học như cái gì lạ lẫm bị họ chối từ. Nhưng nền văn hoá đó đã gây sự lưu tâm của nhân loại ngày nay. Họ tiến bộ y học, có cả bệnh viện do các Tu sĩ thời xa xưa đảm trách, họ có thể mổ xẻ lúc bấy giờ, tuyệt nhiên họ không dùng Tây dược như ngày nay. Họ có một đức tin kiên cố và một nền giáo dục đặc thù. Các tu viện đào tạo ra nhiều Lạt Ma uyên bác. Các Đạt Lai Lạt Ma thứ 2, thứ ba, thứ tư đến thứ năm đều đuợc xuất thân từ phái Cách Lỗ tại Triết Bang tự; Nơi đây, vừa là tu viện, vừa là học viện từng chứa 15 ngàn tu sĩ vào thế kỷ thứ 15.

Tibet là quốc gia rộng gầp 4 lần Việt Nam, dân số trên một triệu vào kỷ nguyên 15, hiện nay do bị Trung quốc đưa 7 triệu dân tộc Hán xen tạp và đồng hoá Tây Tạng, tộc Tạng hiện nay 6 triệu nguời, chưa kể 150 ngàn nguời lưu vong.. Một đất nước nằm ở độ cao gần 5 ngàn km so với mặt biển, Tibet ở Trung Á giáp Ấn Độ, Bhutan, Miến điện và Trung quốc. Một địa linh đã thu hút du khách thế giới. Có những địa danh như núi thiêng Kailash, hồ thiêng Yamdrok, các chùa và cung điện nổi tiếng như Potala, Đại Chiêu tự. Xa xưa, Tây Tạng có trên 20 ngàn ngôi chùa, khi Trung Cộng thôn tính Tây Tạng, hơn 10 ngàn ngôi bị phá huỷ, hàng triệu Tu sĩtín đồ bị giam cầm, sát hại. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 đã vượt khỏi Tây Tạng khi Trung Quốc xâm lăng năm 1959, Ngài cùng một số Tăng sĩ và tín đồ đuợc chính phủ Ấn dành cho một vùng giáp Hy mã Lạp Sơn lập thủ phủ, tu viện, và chính phủ lưu vong đuợc gọi là Dharamsala, nằm phía Bắc Ấn.

 Phật giáo giúp cho Tây Tạng một nhân cách ôn hoà, quảng đại, và văn minh tâm linh, vì thế họ không trang bị vũ lực, quân Anh và Trung Cộng đã dễ dàng quấy nhiễu, thôn tính họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 nhiếp chính thế quyền vào lúc Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Trung quốc nội chiến, Anh Quốc bị chi phối chiến sự, vì thế Đạt Lai Lạt Ma không gặp sự khó khăn ngăn trở. Từ truyền thống đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 kế thừa cả thế quyền lẫn giáo quyền, đuợc gọi là nhà lãnh đạo tinh thần cho dân tộc Tạng. Chính quyền lưu vong được tái lập, cũng từ Dharamsala, tu viện và học viện Phật giáo đuợc tiếp tục đào tạo các Lạt Ma và các dòng mật Pháp Kim Cang thừa..

Năm 2010, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố từ nhiệm thế quyền và không tái sanh nữa. Đây là quyết định khó khăn, Ngài trăn trở nhiều năm khi đưa ra quyết định nầy. Chính quyền lưu vong cũng bàn thảo rất nhiều để đủ can đảm vuợt qua mọi xúc cảm tràn đầy nuớc mắt mà nhân dân đã dành cho Ngài. Tuy Ngài lưu vong trên 50 năm, nguời dân và Tăng sĩ trong nuớc vẫn hướng về Ngài, cho dù Trung Cộng lập lên một Ban Thiền Lạt Ma mới. Qua thời gian hơn nửa thế kỷ kêu gọi cho một Tây Tạng tự trị bất thành, nhận thấy rằng tuổi trẻ Tây Tạng lưu vong đủ khả năng về kiến thức và chính trị kế thừa Ngài. Để đoàn kết trong cộng đồng Tây Tạng giữa giới ôn hoà và tuổi trẻ năng động bất khuất hỗ trợ chính quyền lưu vong dễ dàng làm việc. Và về tâm linh tín ngưỡng, Ngài cũng đã chọn được một vị kế thừa thứ 15; Do đó, trong bất cứ cuộc gặp gỡ nào, từ công cộng đến nghị trường, từ nội bộ đến quốc tế, Ngài đều khẳng định việc rút lui chính trường và lãnh đạo tinh thầncần thiết, có nghĩa hiện tình chính trị đã thay đổi.

Ngài là một nhà lãnh đạo tôn giáo giành đuợc cảm tình hầu hết của nhân loại. Rất nhiều lần được chính phủ Hoa Kỳ tiếp kiến và các chính khách thế giới trân trọng. Ngài trân quý kiến thức khoa học song song với lãnh vực tâm linh và hài hoà với mọi tôn giáo. Ngài dung hòa và giản dị. Tuy ngôi vị nguyên thủ của một quốc gia, Ngài vẫn có phong cách của một người chân lấm tay bùn; vì thế Ngài đã giữ đuợc tình cảm tuyệt đối của đại đa số. Ngài chinh phục nhân loại không bằng cương vị nguyên thủ hay một chức sắc tôn giáo mà đã chinh phục bằng trái tim thương yêu của một bậc hoá thân. Đó là hành trạng của một vị Bồ Tát.

Suốt 11 ngày sinh hoạt tôn giáo tại Washington DC là suốt 11 ngày làm việc liên tục của Ngài, ngày nào cũng cầu nguyện hoà bình cho thế giới, tiếp xúc, nói chuyện với các cấp thẩm quyềnthành tâm trong pháp nghi để chuẩn bị cho một Pháp hội quan trọng – đó là lễ Quán Đảnh Kalachakra. Một Pháp hội 10 năm diễn ra một lần cho lễ Quán Đảnh. Đây là lễ Quán Đảnh truyền qua Mạn Đà La, mà Mạn Đà La quan trọng tối thượngMạn Đà La hình thành bởi cát màu đuợc tịnh hoá bởi năng lực vi diệu của các Lạt Ma. Có loại Mạn Đà La bằng gấm do hoạ sĩ vẽ thì chỉ là Mạn Đà La mà không thể là Kalachakra. Ngày 13 đến ngày 16/7 là ngày khởi sự chuyên sâu vào mật pháp, có người nghĩ rằng đây là lễ Quán đảnh cuối cùng do Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền trao, vì 10 năm sau mới tái hiện như thế.

Tất cả những gì Ngài chọn, tất cả cả những gì Ngài làm và tất cả những gì Ngài nói đều là hành hoạt của một vị Thánh, của một vị Phật. Chính vì thế Con Đuờng Ngài đã chọn truớc tình thế mới của nhân loại ngày nay là điều tất yếu báo hiệu cái gì đến sẽ đến. Những ai hữu duyên thọ nhận pháp Quán đảnh trên xứ sở tự do nầy là món quà vô giá của đời minh, hãy trân quý và tinh tấn trên con đường giải thoát tâm linh.

MINH MẪN
09/7/2011
Ảnh do tác giả cung cấp:

blank


blank

blank

blank

blank


Người đứng phía sau Đức Đạt Lai Lạt Ma là nữ tài tử điện ảnh Oscar Whoopi Goldberg

blank


Tác giả và một vị thầy

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2348)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2664)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2436)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2537)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2537)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2648)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2591)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4088)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2771)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2606)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2629)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2686)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2743)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2597)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2938)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2710)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant