Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phiền não và khổ đau - gốc rễ của giải thoát

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10881)
Phiền não và khổ đau - gốc rễ của giải thoát

PHIỀN NÃO VÀ KHỔ ĐAU - GỐC RỄ CỦA GIẢI THOÁT

Có bao giờ bạn tự hỏi: Nếu cuôc đời không có phiền não, khổ đau chúng ta có cần tìm con đường tu giải thoát hay không? Theo quan niệm thông thường thì ai trong chúng ta cũng tìm kiếm con đường đưa đến hạnh phúc và tránh né lối nào dẫn đến khổ đau.

Nhưng trên thực tế mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thành tựu được vậy! Đa số thường than phiền luôn bị khổ đau vây khốn, còn hạnh phúc thì hiếm hoi như nắng hạn trông mưa. Mình luôn muốn hạnh phúc được lâu bền, nhưng đa phần nó bị đứt đoạn vì phiền não luôn xen vào.

Như vậy, hạnh phúc chỉ xuất hiện khi phiền não, khổ đau hoàn toàn vắng mặt. Nói thế để thấy được sự ‘thiếu thực tế’ khi ai cũng trông chờ, hy vọng, tìm kiếm một hạnh phúc hoàn toàn mà không bao giờ phải hứng chịu khổ đau. 

Sở dĩ, tôi cho là thiếu thực tế vì dù muốn dù không chúng ta ai cũng đều phải kinh qua khổ sầu, từ kẻ sang giàu đến người nghèo khó, và rất có thể từ đây cho đến ngày nhắm mắt! Điều muốn nói ở đây là làm sao chúng ta chuyển hóa chúng để đạt được mục đích giải thoát của mình.

Hoa và cỏ trong đất tâm

Tôi quan niệm rằng mỗi khi tiếp xúc với phiền não, khổ đau là mình vừa tìm ra được thêm những đầu mối, gốc rễ giúp mình giải thoát. Nhờ những phát hiện này, tôi mới có dịp thấy rõ sức mạnh của phiền nãovô minh trong tôi. 

Như phương pháp đức Phật đã chỉ dạy trong Tứ Diệu Đế: trước hết, mình nhận diện khổ đau (khổ đế) và nguyên nhân của nó (tập đế), sau đó, mình xem căn bệnh này có trị được hay không (diệt đế) và phương cách nào để trị (đạo đế). 

Rõ ràng, những phiền muộn, ưu phiền, lo âu, sân hận, ganh ghét, đố kỵ, thất tình, lục dục, v.v.. là những tâm hành sinh ra những hạt mầm khiến đau khổ đâm chồi, và cũng chính những hạt mầm này nếu bị hủy diệt thì hạnh phúc, an lạc sẽ nảy sinh. Hễ chừng nào những hạt mầm xấu được chăm nom, tưới tẩm thì những khổ đau, phiền não sẽ mọc rể ăn sâu. Gốc càng lớn, rể càng sâu, thì càng khó mà diệt trừ

Trong kinh Trung Bộ số 64 - phẩm Đại kinh Man đồng tử, Phật dạy về 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục, và sân), là 5 sự buộc ràng khiến chúng ta không thể thành tựu được các quả vị từ tu-đà-hoàn đến a-la-hán. Chỉ khi nào chúng ta tự mình cởi trói, triệt tiêu 5 món buộc ràng này, thì mới thực sự được giải thoát.

Trong đời sống hàng ngày, vì luôn bị những tâm hành phiền não quấy nhiễu, thay vì chánh niệm và tỉnh thức để chúng tự hủy chúng ta lại tưới tẩm, nuôi dưỡng chúng. Thử tưởng tượng xem nếu tâm ta là một mảnh đất thì hiện những hoa màu nào đang mọc mạnh nhất trong ta? Tất nhiên là những hoa màu do chúng ta chăm nom, nuôi dưỡng.

Mulla Nasruden quyết định trồng một vườn hoa. Ông ta sửa soạn khoảng đất và gieo hạt của nhiều loại hoa đẹp mà ông thích lên trên đó. Nhưng khi chúng mọc lên cao, vườn hoa của ông lại mọc đầy những hoa dại lấn lướt những loại hoa đẹp ông đã chọn. Ông ta đi tìm hỏi những người làm vườn kinh nghiệm khắp nơi nhờ chỉ cách diệt loại hoa dại này, và đã thử mọi phương pháp học được, nhưng đều vô ích.

Cuối cùng, ông bèn đi đến tận thủ đô để xin sự hướng dẫn của người làm vườn trong hoàng cungTuy nhiên, mọi cách thức ông ta dạy, như những phương cách khác Mulla đã thử qua, đều thất bại. Họ ngồi bên nhau trầm ngâm, suy tư một hồi lâu và sau cùng người làm vườn của hoàng cung nói, “Vậy tôi đề nghị anh hãy học cách yêu thích chúng thì hơn!”

Cũng vậy, từ đây cho đến ngày lìa khỏi thế gian này chúng ta sẽ còn phải đối diện với phiền não và khổ đau. Nếu lỡ chúng ta đã trồng nhiều hoa dại trong vườn tâm thì chính chúng ta phải học cách yêu thích chúng như Mulla Nasruden đã làm hoặc tìm cách triệt tiêu những hạt mầm hoa dại ngay từ bây giờ. 

Phiền não tức Bồ-đề

Có một câu chuyện kể rằng: Một người kia vừa mới chết và được sinh vào một nơi thật là xinh đẹp, bao quanh với mọi thứ lạc thú không thể nào tưởng tượng được. Một người bận áo choàng trắng đến đón chào anh ta và nói: “Ngài có thể có mọi thứ ngài muốn - thức ăn, khoái lạc, mọi thứ giải trí.”

Anh ta thật là sung sướng, và cả ngày anh ta thử hết tất cả những món mà anh ta đã mơ ước khi ở trần gian. Nhưng một ngày kia, anh ta đâm chán với tất cả mọi thứ, và cho gọi người hầu đến, và nói: “Tôi chán hết mọi thứ ở đây rồi, tôi cần một việc gì đó để làm. Ông có việc gì cho tôi làm hay không?”

Người hầu buồn bả lắc đầu, rồi đáp, “Xin lỗi ngài. Đó là điều duy nhất chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Không có việc làm gì ở đây cho ngài cả!”

Nghe người hầu trả lời xong, anh ta bèn nói:“Thật là hay chưa! Tôi chẳng thà sinh vào địa ngục.”

Người hầu bèn nhẹ nhàng đáp: “Vậy ngài nghĩ ngài đang ở đâu đây?”

Qua câu chuyện trên, chúng ta nghiệm thấy rằng: khổ đau tức hạnh phúc hay phiền não tức bồ đề. Nghĩa là, muốn thành tựu bồ đề chúng ta phải thấu hiểu phiền nãophiền não, khổ đau vốn là ‘mặt trái’ của tâm bồ đề. Do vậy, việc đối diện, tiếp cận, hay kinh qua những phiền não là điều không thể tránh được nếu chúng ta muốn giác ngộ, giải thoát.

Thật là một điều không tưởng khi chúng ta chỉ muốn đạt được giải thoát, giác ngộ mà không phải chịu khổ đau, phiền não. Thế nhưng, thật là oái oăm thay chúng ta chỉ muốn tu tập làm sao để đừng bao giờ bị khổ đau quấy rầy, chỉ muốn theo đuổi con đường nào đưa đến hạnh phúc, giải thoát, và an lạc mà không phải đương đầu với những phiền toái của thế gian!

Chúng ta thường nghe và hiểu về con đường ‘Trung Đạo’ mà đức Phật đã dạy, nhưng mình thì cứ theo đuổi và trông mong một con đường ‘Độc Đạo’ để tu ‘cho dễ’!

Đi tìm giải thoát trong phiền Não, khổ đau

Nếu quán chiếu sâu xa chúng ta thấy rằng trong hạnh phúc có mầm khổ đau và, ngược lại, trong khổ đau có mầm hạnh phúc. Điều quan trọng là thái độ của chúng ta khi đối diện với khổ đau hay hạnh phúc. Như Rita Barber đã khéo léo diễn tả ý trên qua đoạn văn sau: 

“Tôi có thể xem việc con gái nửa đêm chạy vào phòng là một hành động quấy phá giấc ngủ của tôi, hoặc xem đó là một hành động kêu cứu xin dỗ dành, nhận thức được rằng đây là một khoảnh khắc trong cuộc đời của cháu cần sự vỗ về vì cháu bị ác mộng.

Tôi có thể xem việc con gái tôi đào bới những hạt giống mà tôi vừa trồng như là một hành động phá phách, hư hỏng, hoặc là một hành động tò mò tìm hiểu của trẻ thơ muốn tìm hiểu xem cái gì hay ai đã khiến cho hạt giống thành cây.

Tôi có thể xem việc con gái tôi từ chối mặc bộ đồ tôi chọn như là một hành động không vâng lời, hoặc là một ý muốn được tự chọn lựa.

Tôi có thể xem việc dạy con gái tôi như là một sự thách đố khó khăn, hoặc là một người thày dạy tôi cách sống.

Tôi có thể xem việc kêu khóc um sùm của các con như là một sự chống trái đáng bị phạt, hoặc là những bước khởi đầu để tôi học biết cách thương lượng và sống chung hòa bình với người khác.

Nhiều lần tôi cảm thấy bị thử thách để làm một bà mẹ hiền, nhưng hơn tất cả mọi thứ, tôi cảm thấy mình có phước và trọn vẹn hơn tất cả những thứ có thể mua được trên thế gian này, và thực sự vinh dự vì vị thiên thần nhỏ này đã chọn tôi làm mẹ, và đồng thời là học trò và cũng là thầy giáo của cháu.

Tôi có thể xem việc có đứa con này là một món nợ kiếp trước hay là một món quà vô giá của trời cho.

Khi nhìn con, tôi thấy thượng đế.

Đồng tiềnhai mặt, nhưng dù tôi được mặt nào, tôi đều là người chiến thắng.”

Thái độ sống của Rita Barber cho chúng ta một cái nhìn tươi mát vào những hiện tượng, hoàn cảnh xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và mình đã phản ứng ra sao đối với chúng. Đơn giản qua cách nhìn và những tình cảm (cảm thọ) của chính mình, chúng ta đã mở rộng vòng tay đón chào, hoặc hất hủi, ghê sợ chúng. 

Như vậy, hiện tượng khổ đau, phiền não không phải hoàn toàn đáng sợkinh hãi. Chúng chứa đựng những cảm giác bất an, bất như ý, bực giận, khó chịu, v.v.. và v.v.. nhưng chính những yếu tố này lại là những nguồn kích thích khiến ta vươn lên và tìm lối giải thoát, tự do. Thiếu chúng, chúng ta như thiếu đi ‘nhân tố hay động lực cần thiết’ để khiến mình phấn đấu, đứng dậy để làm người. 

Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc như chính bản thân đức Phật đã kinh qua.

Những ngày sống trong nhung lụa, kẻ hầu người hạ đến những năm tháng khổ hạnh cực cùng, đức Thế tôn đã nhận chân được giá trị của cả hai thái cựcsung sướng và khổ đau. Từ đó, Ngài không còn thấy khổ đau hay sung sướng là những trở lực cho công phu tu tập của Ngài.

Ngược lại, Ngài xem chúng chính là nguồn hứng khởi để luôn tinh tấn trong con đường tìm giác ngộgiải thoát. Có thể nói, chính sự trải nghiệm qua hai thái cực này mà đức Thế tôn đã tìm ra con đường Trung đạo.

Rõ ràng, chúng là nền tảng, gốc rễ giúp đức Phật tìm ra chân lý giải thoát. Nói vậy để cùng nhìn nhận rằng phiền não, khổ đau không hẳn là kẻ thù truyền kiếp của chúng ta; cũng như sung sướng, hạnh phúc không phải lúc nào cũng là bạn hiền muôn thuở. Vì nếu thiếu một trong hai, việc tìm kiếm con đường giác ngộgiải thoát của chúng ta sẽ không thể nào thực hiện được. 

Thiện Ý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2628)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2513)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2631)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2415)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3221)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2391)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2512)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2521)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2173)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2562)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2629)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2677)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2523)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4052)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2757)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3030)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2782)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2852)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2369)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2466)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2720)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2118)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2571)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2801)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2910)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2492)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant