Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12030)
Chuyện tiền thân: Bùn nào làm uế được pha lê!


Tại tịnh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện về việc các tu sĩ ngoại đạo đã thuê người sát hại cô Tôn-đà-lợi (Sundarī).

Thời bấy giờ, dân chúng rất kính trọng đức Phật. Sự kính trọng này giống như năm con sông đổ vào đại dương. Những tu sĩ ngoại đạo nhận thấy rằng lợi lộc và lòng tôn kính không còn đến với họ nữa, nên tập họp lại và cùng nhau bàn bạc:

– Thưa huynh đệ, từ khi Sa môn Cù Đàm (Gotama) xuất hiện, chúng ta không còn nhận được lợi lộc và dân chúng không còn kính trọng chúng ta nữa, chẳng còn một ai biết đến sự có mặt của chúng ta. Ai sẽ là người giúp chúng ta sĩ nhục Sa môn Cù Đàm, và khiến cho dân chúng đừng cúng dườngkính trọng ông ta nữa?

Rồi họ đã nghĩ ra, “Tôn-đà-lợi là người có thể giúp chúng ta thực hiện việc này”.

Vì thế một hôm, khi Tôn-đà-lợi đến thăm khu rừng những vị ngoại đạo cư trú, những vị ngoại đạo gật đầu chào cô nhưng ngậm thinh không nói một lời nào. Cô ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, nhưng không một ai trả lời. Cô hỏi tiếp:

– Thưa các thầy, có điều gì làm cho các thầy bực mình chăng?

Họ nói:

– Này chị, chị không nhìn thấy Sa môn Cù Đàm quấy rầy chúng tôi, tước đi phẩm vật cúng dườngthanh danh của chúng tôi ư?

– Vậy con có thể làm gì để giúp các thầy đây? Cô ta hỏi.

– Này chị, chị xinh đẹp và đáng yêu. Chị có thể làm nhục Sa môn Cù Đàm, lời nói của chị có thể tác động đến rất nhiều người. Nếu ông ta bị hạ nhục, thì chúng tôi có thể nhận lại được lợi lộcthanh danh của mình.

Cô ta đồng ý rồi ra về. Sau đó, cô ta thường mang hoa, dầu thơm, long não, gia vị và trái cây; đợi đến chiều tối, lúc đám đông sau khi nghe đức Thế Tôn thuyết pháp xong và trên đường trở vào kinh thành, cô ta hướng mặt đi đến tinh xá Kỳ Viên. Nếu có ai hỏi cô đang đi đâu, cô ta nói:

– Tôi đang đi đến chỗ Sa môn Cù Đàm, và tôi sẽ ở lại đấy với ông ấy trong một hương phòng.

Sau đó, cô nghỉ qua đêm ở chỗ những tu sĩ ngoại đạo, vào buổi sáng cô ta lại trở về theo con đường từ tinh xá Kỳ Viên vào kinh thành. Nếu có ai hỏi cô ta đi đâu về, cô ta trả lời:

– Tôi đã ở với Sa môn Cù Đàm trong một hương phòng, và ông ấy đã làm tình với tôi.

Một vài ngày sau, những vị ngoại đạo thuê một vài tên côn đồ giết chết Tôn-đà-lợi trước phòng đức Phật và ném xác cô ta vào trong đống rác. Rồi họ lại rêu rao tìm kiếm Tôn-đà-lợi, và trình báo với nhà vua. Nhà vua yêu cầu họ chỉ ra nơi họ nghi vấn. Họ trả lời rằng trước đây một vài ngày cô ta có đi đến tịnh xá Kỳ Viên, nhưng họ không biết những gì xảy ra sau đó. Nhà vua bảo họ đến đó tìm kiếm cô ta. Được phép thế, họ dẫn theo những người hầu của nhà vua, và đi đến Kỳ Viên. Ở đấy, họ lùng sục khắp nơi cho đến khi họ tìm thấy xác Tôn-đà-lợi ở trong đống rác. Bảo mang đến một cái cáng, họ đưa xác cô ta vào kinh thành, tâu với nhà vua rằng những đệ tử của Sa môn Cù Đàm đã giết chết Tôn-đà-lợi và ném cô ta vào trong đống rác để che đậy tội lỗi đấng Đạo Sư của họ. Nhà vua bảo họ đi khắp kinh thành thông báo việc này. Họ đi khắp các đường phố rêu rao:

– Xin hãy đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Rêu rao xong, họ quay lại cổng cung điện. Nhà vua đặt xác Tôn-đà-lợi trên một cái bệ, rồi cho mang vào nghĩa địa canh giữ. Trừ các Tỳ-kheo ra, còn tất cả dân chúng đi khắp trong thành, ngoài thành, khắp công viên, rừng cây, lăng mạ sĩ nhục các Tỳ-kheo và la lớn:

– Xin đến xem những gì mà những Sa môn Thích tử đã làm.

Chư Tỳ-kheo bạch lại tất cả sự việc này lên đức Thế Tôn. Ngài nói:

– Thôi được, các thầy hãy đến quở trách những người này bằng lời sau:

Người thích nói dối đọa địa ngục

Người làm, bảo không có khác chi.

Hai hạng người này khi bỏ mạng

Sanh vào cõi ác không hồ nghi.

Sau đó, nhà vua ra lệnh cho một vài người đi điều tra xem người nào đã giết phải Tôn-đà-lợi. Bấy giờ, những tên vô lại đang ngồi uống rượu bằng đồng tiền vấy máu và tranh cãi với nhau. Một tên nói với một tên khác:

– Mày đã giết Tôn-đà-lợi bằng một cú đánh, rồi ném xác cô ta vào trong đống rác, giờ đây mày lại mua rượu bằng đồng tiền vấy máu đó!

– Đúng đây rồi, đúng những tên này rồi.

Những sứ giả của nhà vua nói và bắt lấy những tên côn đồ, kéo chúng đến trước nhà vua. Nhà vua hỏi:

– Có phải các ngươi đã giết cô ta không?

– Thưa đại vương, chúng con đã làm việc đó. Họ trả lời.

– Ai bảo các ngươi làm?

– Tâu đại vương, những tu sĩ ngoại đạo.

Nhà vua cho gọi những tu sĩ ngoại đạo đến. Ông bảo: – Hãy nhấc Tôn-đà-lợi lên và mang cô ta đi quanh kinh thành, khi các ngươi đi hãy hô to: Cô Tôn-đà-lợi muốn làm nhục Sa môn Cù Đàm, chúng tôi đã giết cô ta; tội lỗi này không phải của Sa môn Cù Đàm, cũng không phải của những đệ tử ông ấy; tội lỗi này là của chúng tôi!

Họ làm theo như vậy. Quần chúng mê mờ trở lại tin tưởng đức Phật. Còn những vị ngoại đạo không còn làm điều ác nữa, do phải nhận lấy sự trừng phạt vì tội sát hại. Từ đó về sau, thanh danh của đức Phật ngày càng trở nên rộng lớn. Rồi một ngày nọ, chư Tỳ-kheo bắt đầu đàm luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Thưa các Hiền hữu, những tu sĩ ngoại đạo muốn bôi nhọ đức Phật, và rồi chính họ tự bôi nhọ lấy mình. Từ đó, lợi lộcthanh danh của chúng ta được gia tăng!

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang bàn luận việc gì? Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

– Này các Tỳ-kheo, để làm nhơ uế Thế Tôn là điều không thể. Cố gắng làm nhơ uế Thế Tôn thì cũng giống như cố làm nhơ uế một viên bảo ngọc. Vào đời quá khứ, người ta muốn làm nhơ uế một viên ngọc đẹp, và họ có cố thế nào cũng không thể làm được, nên đành chịu thất bại.

Và rồi, Ngài kể cho họ một câu chuyện đời quá khứ.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào trong một gia đình Bà-la-môn. Khi Ngài trưởng thành, nhận thức được nỗi khổ đau phát sanh từ tham ái, Ngài đã rời bỏ gia đình sống đời sống xuất gia. Sau khi vượt qua ba rặng núi của dãy Tuyết Sơn, đến đấy, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ, sống trong một thảo am.

Gần thảo am của Ngài có một hang động pha lê, có ba mươi con heo rừng sống trong ấy. Gần hang động, có một con sư tử thường hay qua lại và cái bóng của nó phản chiếu trong pha lê. Những con heo rừng thấy cái bóng phản chiếu này sinh sợ hãi nên trở thành gầy còm, xanh xao. Chúng nghĩ, “sở dĩ chúng ta thấy cái bóng phản chiếu này bởi vì lớp pha lê quá sáng. Chúng ta hãy làm dơ bẩn và uế màu nó đi.” Vì thế, chúng lấy một ít bùn từ một cái hồ gần đó và chà xát mãi lên lớp pha lê. Nhưng pha lê, được lớp lông cứng của những con heo chà xát càng trở nên sáng bóng hơn.

Chúng không biết xoay xở ra làm sao nên quyết định đến hỏi ẩn sĩ, làm cách nào chúng có thể làm dơ bẩn được lớp pha lê. Sau khi đi đến vị ẩn sĩ, chúng cung kính chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên và đọc lên hai bài kệ:

Ba mươi chúng tôi bảy năm nay

Sống trong hang động pha lê này.

Giờ cố làm mờ đi ánh sáng

Nhưng chúng tôi đành chịu bó tay.

chúng tôi đây dốc hết sức

Làm mờ ánh sáng pha lê đi.

Pha lê vẫn tỏa ánh sáng rực,

Nguyên nhân có thể là do gì?

Bồ-tát lắng nghe, sau đó Ngài đọc lên bài kệ thứ ba:

Pha lê quý giá, không tì vết

Sáng rực, trong suốt; đâu phải gương.

Ánh sáng của nó mãi chắc thật

Không có vật gì làm tổn thương.

Này những bạn heo, tốt nhất hãy

Chọn lấy nơi khác mà náu nương.

Chúng đã làm như vậy khi nghe câu trả lời này. Rồi Bồ-tát trú sâu trong thiền định, và sau đó sanh về thế giới Phạm Thiên.

* * *

Sau khi kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn nhận diện Tiền Thân:

Vào thuở ấy, Ta chính là vị ẩn sĩ.

 

(*) Tiền Thân Maṇisūkara, số 285, bản Anh ngữ.

Lời bàn:

Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp được những điều an ổn, gặp được những người tốt, sẵn lòng thương yêu và giúp đỡ. Bên cạnh những người thương yêuquý mến, vẫn có những người luôn ghanh ghét, đố kỵ, tìm cách vu khống, bôi nhọ và hãm hại chúng ta. Điều đó là lẽ thường tình trong cuộc sống, bởi lẽ sống giữa đời này khó tìm ra người hoàn toàn được thương yêu mà không bị ganh ghét. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta đừng mong rằng tất cả mọi người sẽ luôn yêu thươngquý trọng chúng ta, mà chúng ta phải làm sao tự hoàn thiện lấy bản thân, sống như thế nào đó để khi đối mặt với những ghanh ghét, vu khống… chúng ta vẫn có được một thái độ tỉnh táo, bình thản, sẵn sàng đón nhận và chuyển hóakhông sinh lòng oán trách, thù hận.

Cuộc đời của đức Phật là tấm gương sáng, phản chiếu rất rõ phẩm hạnh này. Trong sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, đức Phật gặp rất nhiều chướng ngại, đối mặt với không ít những lời sỉ nhục, vu khống, bôi nhọ… Nhưng đứng trước những trường hợp như vậy, Ngài luôn thể hiện một thái độ bình thản, sẵn sàng đón nhận như là cái tất yếu phải có; không dao động sợ hãi, không oán hận trả thù. Ngài bình thản đón nhận vì tin rằng: “Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng chẳng đến trời mà trở lại rơi nhằm vào mình. Ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến người mà trở lại dính vào thân. Người hiền không thể hại được mà họa ắt mình phải chịu”.1

câu chuyện này, một lần nữa chúng ta lại nhận thấy điều ấy.

Những tu sĩ ngoại đạomục đích lợi lộc và muốn được dân chúng tôn kính nên đã bày mưu bôi nhọ thanh danh đức Phật. Đức Phật bình thản đón nhận và tin rằng chính những kẻ vu khống kia sẽ gặt lấy quả ác do việc làm xấu xa của họ, và quả thật đã đúng như vậy.

Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được. Cố công bôi nhọ, sĩ nhục người phạm hạnh thì cũng giống như bầy heo kia ra sức đem bùn chà lên pha lê, mong làm mờ đi ánh sáng của nó. Pha lê trái lại không mờ mà tự làm hao tổn sức mình và rước họa vào thân.

Quang Sơn

 

(1) “Ác nhân hại hiền giả do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên hoàn tòng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân, hiền bất khả huỷ, họa tất diệt thân”. (Kinh Tứ thập nhị chương)

Nguồn: daitangkinhvietnam.org


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2759)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2234)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2366)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2677)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2325)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2548)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2220)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3008)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2613)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4114)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2780)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3010)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2619)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2488)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2562)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2056)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2830)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2952)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant