Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tượng Phật đến từ phương trời xa

11 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12262)
Tượng Phật đến từ phương trời xa

TƯỢNG PHẬT ĐẾN TỪ PHƯƠNG TRỜI XA

Tác giả: Julia O’Malley

Bài đã được xuất bản: 08/10/2011 06:00 GMT+7
Chuyển ngữ: Cao Huy Hóa - Nguyễn Hoàng

Trong cảnh hoang tàn đổ nát, ông thoáng thấy một pho tượng Phật, vững chắc và tinh khôi, nằm ngay trong đó. Pho tượng ấy làm ông liên tưởng đến sự tàn phá của cuộc chiến, phá hủy cả một dân tộc và truyền thống lâu đời của nước này.

LTS: Tác giả Julia O'Malley là nhà báo nữ chuyên viết các vấn đề về đời sống và chính trị tại thành phố Anchorage và tiểu bang Alaska. Với tư cách phóng viên, bà đã theo dõi hệ thống tòa án và đề cập rộng rãi về cuộc sống tại Anchorage, kể cả những thay đổi lớn trong những cộng đồng dân tộc ít người. Năm 2008, bà đã được giải thưởng Ernie Pyle của Scripps-Howard Foundation về những bài viết xuất sắc ở Mỹ giàu tính nhân bản. Dưới đây là bài dịch từ nguyên tác: "From another world, an icon moves to G Street" của Julia O'Malley trên báo mạng Anchorage Daily News ngày 16/8/2011.

Cách đây vài năm, một người thợ cơ khí trước kia làm việc tại công ty xăng dầu BP tên là Suel Jones mê mẩn một pho tượng Phật. Tượng này cân nặng 700 cân[1], bằng đá hoa, tác phẩm của một người tạc tượng tại Ngũ Hành Sơn, bên ngoài thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.

"Khi nhìn thấy pho tượng, không hiểu sao tôi thích quá, có thể là vì nét mặt, có thể là vì thớ đá". Ông thuật lại: "Tôi nói: 'Đó, tôi thích pho tượng kia, pho tượng nằm đàng kia kìa.'"

Pho tượng này gợi lại ký ức một thời ông là lính thủy quân lục chiến ở đất nước ấy, một kinh nghiệm ông vẫn còn nhớ day dứt. Ông nhớ lại một ngày của bốn mươi năm trước, khi ông và những người lính thủy quân lục chiến khác đến một ngôi làng nhỏ, tên là Cam Lộ[2].

Ông nói: "Có một ngôi chùa nhỏ tại làng đó bị bom phá tan tành".

blank

Người cựu chiến binh Suel Jones bên cạnh tượng Phật

Trong cảnh hoang tàn đổ nát, ông thoáng thấy một pho tượng Phật, vững chắc và tinh khôi, nằm ngay trong đó. Pho tượng ấy làm ông liên tưởng đến sự tàn phá của cuộc chiến, phá hủy cả một dân tộc và truyền thống lâu đời của nước này. Giờ đây pho tượng Phật trắng tại Ngũ Hành Sơn này trông có vẻ rất quen thuộc. Có cái gì đó nơi nụ cười, cứ như ông Phật của 40 năm trước bằng cách nào đó đã quay lại với ông. Ông thấy thích pho tượng, thích như chưa bao giờ thích đến thế.

Suel mua pho tượng đó với giá 500 đô-la. Ông đã phải trả hơn gấp đôi số tiền này để gởi tượng về Alaska bằng tàu thủy. Ông có ý định dùng pho tượng này để trang trí khu vườn thư giãn của ông nằm dọc theo Glenn Highway, ở thành phố Glacier View, cách Anchorage khoảng một trăm dặm. Khi tượng về, ông lái xe quanh thành phố Anchorage với pho tượng đàng sau chiếc xe tải nhỏ của ông. Xe đến đâu, ông Phật đều gây xôn xao. Ở những chỗ dừng đèn đỏ, ở các trạm xăng, những người không quen đến gần để xem cho được. Ai ai cũng tò mò.
Ông kể : "Họ tới gần để được sờ tay vào pho tượng đang ngồi sau xe tải của tôi."

Ông chở ông Phật xuống phố đến tiệm cà phê Side Street, nơi ông thường đến uống từ hơn 20 năm nay, để hai anh chị chủ hàng, anh George Gee và chị Deb Seaton, thưởng lãm. Chị Deb bảo rằng pho tượng giống như một cổ vật trong viện bảo tàng. "Tôi nhìn mà muốn khóc. Tượng sao mà đẹp như vậy!"

Anh George cho rằng pho tượng này không thể thuộc vào một khu vườn ở một nơi xa xôi. Mỗi năm, ông Suel chỉ ở Glacier View nửa năm còn nửa năm kia ông ở Việt Nam, làm công tác thiện nguyện của cựu chiến binh, như tháo gở mìn hoặc xây cất sân chơi cho trẻ con. Ông nghĩ chắc ông nên bán tượng này lấy tiền thu được để làm công việc từ thiệnViệt Nam. Anh George và chị Deb bảo ông có thể để ông Phật tại quán để dễ tìm người mua hơn.

Khi tượng đến cảng người ta đã dùng xe giở hàng để dời tượng qua xe tải, giờ đây không có xe giở hàng để đem tượng xuống, nên Suel phải huy động bạn bè đến giúp. Họ chỉ đưa được tượng xuống ngay trước quán cà phê. Nhưng không cách nào đưa tượng vào trong quán. Tượng nặng quá!

Vừa lúc ấy, một nhóm người đi xe mô-tô Harley lực lưỡng, bận y phục bằng da, rầm rộ chạy đến. Nhìn thấy nhiều người vất vả với ông Phật, họ quay lại, đậu xe mô-tô và xung phong vào giúp.

Ông Suel kể: "Họ hầu như chỉ cần nhấc tượng lên rồi nhẹ nhàng để vào trong quán."

Vậy là ông Phật đến ngụ cư ở quán cà phê Side Street, tọa vị trong góc giữa cái tủ lạnh và bàn chơi cờ. Hai năm trôi qua như thế.

Ông Suel nói: "Chẳng ai mua tượng cả. Hình như ông Phật đã quyết định không muốn rời bỏ nơi này."

Khách hàng quen thuộc, nhiều người lắm, trở nên quyến luyến ông Phật. Họ đến vân vê nếp áo. Các dấu tay làm cho hai vai tượng không còn bóng láng nữa. Một bàn thờ nho nhỏ với nến và hoa quanh tượng.

Khi tôi hỏi Suel điều gì đã khiến pho tượng thu hút nhiều người như vậy thì ông bảo: "Nước Mỹ của chúng ta hiện đang trải qua một cơn khủng hoảng. Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị. Cựu chiến binh từ hai cuộc chiến trở về phải cố gắng lắm mới tìm ra ý nghĩa của cuộc sống".

"Nơi đâu cho tâm bình yên và tĩnh lặng thì chúng ta cần nơi đó lắm chứ!".

Anh George dậy sớm mỗi sáng vẽ minh họa và viết vài câu văn trên bảng quảng cáo các món đặc biệt hàng ngày. Anh ta đâm ra quen thuộc với sự có mặt của ông Phật bên cạnh, vào những giờ phút tỉnh lặng trầm tư nhất trong ngày. Anh bảo quán cà phê luôn luôn có một sinh lực riêng của nó. Ông Phật ở đây thật quá hợp.

"Pho tượng này vốn đã có sẵn một phẩm chất kỳ diệu. Phẩm chất này đã quyến rũ mấy anh chạy mô-tô phải quay xe trở lại. Phẩm chất này đã khiến cho một người gởi 700 cân đá hoa đi nửa vòng trái đất".

Cách đây chừng một tháng, có người dạm mua tượng. Đám khách quen chuyền tai nhau rằng sẽ không còn pho tượng ở quán cà phê nữa. Một hôm, vào hai tuần trước, một khách hàng mở ví giống như ông ta vẫn hay làm khi trả tiền và rút ra 3.000 đô-la. Chị Deb bảo ông ấy muốn mua tượng, với điều kiện là pho tượng sẽ ở lại trong quán.

Suel nhận lời. Số tiền sẽ sang giúp Việt Nam.

"Cô biết không, tôi ngạc nhiên vô cùng, nhưng rồi tôi hiểu. Tôi hiểu rằng ông ấy muốn san sẻ Phật."

Và thế là tượng vẫn còn đó, không phải trong chùa, mà trong một quán cà phê trên phố G, nhìn những khách hàng vừa chờ cốc cà phê sữa vừa dán mắt vào điện thoại di động, với nét mặt hiền từ và nụ cười thanh thản quen thuộc.

Cao Huy Hóa - Nguyễn Hoàng (dịch từ Anchorage Daily News)


[1] Cân: pound, tương đương 0,454 kg. Tượng nặng khoảng 317 kg. (Chú thích của người dịch)

[2] Ngày nay là thị trấn Cam Lộ, huyện lỵ của huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. (Chú thích của người dịch)

(Nguồn: TuanVietNam.net)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2227)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2668)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2711)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2998)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4099)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3310)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2389)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2691)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2906)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2716)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant