Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Viên sỏi trắng

01 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13376)
Viên sỏi trắng
image

Mỗi sáng xả thiền, thầy đều thấy những viên sỏi trắng được sắp xếp gọn gàng ngay lối đi. Ngày một ít. Lâu dần, con đường nhỏ dẫn đến ngôi tịnh thất đã trải đầy thảm sỏi.

Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn in trên nền đất, ông khẽ lắc đầu:_ Làm sao nó có thể chạy nhanh như sóc vậy chứ.

Thầy ngồi thiền. Ánh nắng ban mai soi bạc cả mảnh y vàng đắp trên người. Không gian sáng lòa mà yên tĩnh. Mùi hoa sói bên hiên ngoài thoang thoảng hương vị của tách trà thơm buổi sớm. Rồi thì con bé thập thò bước vào. Một thân hình khẳng khiu bé nhỏ, xác xơ như chiếc lá úa buổi chiều tàn. Duy chỉ có đôi mắt thơ ngây là còn đọng lại đôi chút long lanh ngời sáng.

Sau khi rải hết bọc sỏi... con bé bước đến ngồi ngay bục cửa gian tịnh thất. Mắt ngước nhìn vị thầy, nó bắt chước theo cách ngồi của người. Mọi hơi thở cử động của nó cũng rất khẽ, rất nhẹ nhàng. Nó lo sợ vị thầy nhìn thấy, dù biết người hiền từ đâu nỡ bắt tội một đứa nhỏ bệnh tật. Con bé chẳng hiểu thầy ngồi như thế để làm gì. Nhưng hình bóng thầy toát lên vẻ uy nghiêm khả kính làm nó cảm thấy thật an lành. Nó phát hiện ra nơi này trong một lần tha thẩn ngang qua, bèn khởi ý tưởng đem trải sỏi dọc theo con đường.

Nhiều tháng rồi vị thầy chưa tiếp cận được với con bé. Nó đến và đi cứ như bóng ma chập chờn lẩn khuất. Khi xả thiền, thầy chỉ thoáng thấy dáng nó bỏ chạy xa xa nơi lùm bụi. Chỉ có những viên sỏi trắng ngày một nhiều thêm trên lối đi. Loại sỏi này thầy nghe nói có rất nhiều bên con suối cạn. Và một hôm thầy cũng lần mò tìm tới...

Con bé mở to đôi mắt khi thoáng thấy tà áo nâu đi ngược lên đồi. Đã lâu lắm rồi, dân trong làng thi thoảng đi qua quăng cho một ít thức ăn để giúp nó không bị chết đói, rồi thôi. Chẳng ai thăm viếng hay hỏi han nó lấy một lời. Lúc nãy, nó đã toan đứng dậy bỏ chạy nhưng đôi chân đau quá. Ánh nắng phản chiếu gương mặt hốc hác xanh xao, để lộ vài vết thâm tím gần mí mắt.

Thầy hơi chựng lại khi nhìn con bé đang ngồi bệt dưới đất nhặt nhạnh những viên sỏi với vẻ mặt hốt hoảng. Như kịp hiểu ra điều gì, thầy bước tới ngồi xuống cạnh nó rồi dịu dàng hỏi:

- Sao lâu nay con không tới trải sỏi. Con bị bệnh à?

Con bé chưa hết ngơ ngác. Nó không hiểu hay không biết trả lời thế nào. Thầy vẫn ôn tồn:

- Con bị bệnh phải không? Sao lại ở đây một mình? Ba mẹ nhà cửa con đâu?

Con bé đưa tay chỉ căn chòi lá bên khu đồng mả. Qua giây phút ngỡ ngàng, con chim nhỏ bắt đầu cất tiếng. Nó cố gắng bật ra từng tiếng một, giọng ngọng nghịu đến khó nghe: - Mọi... người nằm... ở đó. Không còn ai cả...

Thoáng lạ lùng, rồi thầy cũng đoán hiểu trong nỗi ngậm ngùi xót xa. Thầy nhìn vào đôi mắt thâm tím của nó: - Đôi mắt con bị sao thế này?

- Hôm trước... con sợ.. sợ thầy… bắt gặp... nên chạy... té.

- Hừ! Chắc là đau lắm? Thầy có làm gì đâu mà con phải sợ đến như vậy? Con ở đây một mình rồi ăn uống thuốc men làm sao? Không thể như thế này được. Để thầy đưa con về tịnh thất chăm sóc.

Con bé yên lặng quay nhìn ra đồng mả. Mắt nó rươm rướm ngấn lệ.

- Con tên là gì? - Thầy vẫn nhỏ nhẹ.

Giây lâu con bé mới lắp bắp trả lời:- Con tên… A Lin. Mà không... Con là... Sỏi Trắng?

Thầy cười, cố ý nhại theo: - Đó là tên sao, Sỏi Trắng?

Con bé lại lắc đầu. Dường như nó chẳng biết gì hơn nữa. Cả với cái tên của mình.

Đá sỏi trơ gan cũng phải mềm lòng khi bước chân người tìm đến. Suối ngàn róc rách. Chim hót oanh ca. Gió ngàn vi vu bên những tàng cây lá đổ tạo nên bản hợp xướng không lời nơi chốn rừng xanh êm ả. Nhiều năm rồi, dòng suối cạn được nạo vét, hình thành một dòng chảy bất tận qua các xóm làng ven núi. Cây trái sum suê đã làm thay đổi hẳn bộ mặt một vùng đất vốn nổi tiếng khô hạn lâu nay.

Chính vị thầy đã tìm ra mạch nước ngầm từ trên một đỉnh thác cao. Sau đó thầy huy động dân làng đục đá, nạo vét lòng suối để cho dòng nước được thông nguồn tuôn chảy. Con suối hồi sinh. Dân quanh vùng tìm đến phát nương làm rẫy. Nhà cửa đông dần. Nhiều con đường được mở ra. Vị thầy cũng dời am thất về bên bờ suối. Con đường từ tịnh thất của thầy đi qua các dãy nhà đều trải đá sỏi. Mấy ngôi mộ bên bờ suối cũng được xây lăng, trồng hoa. Riêng mộ của Thiện Duyên mọc dày đặc các loại cỏ chỉ. Phía trên đặt khung gỗ lớn viết mấy hàng thư pháp. Nét chữ nhỏ mà tiêu phóng như dàn trải cho đời bao ước mơ thầm lặng...

“Khi người ta ném viên sỏi vào nước dù rất nhỏ, nó cũng tạo nên vài gợn sóng. Khi đã gieo vào lòng mình chút duyên lành, nó cũng sẽ kết tinh nên những hạt mầm tươi đẹp cho sự sống muôn đời tiếp nối”.

Một lần thầy giảng cho con bé nghe về dòng suối thanh lương có thể rửa hết muộn phiền đau khổ. Thầy nói câu ấy và con bé ghi nhớ. Rồi nó đọc lại cho người tạo cây cảnh khu vườn viết thư pháp lên gỗ. Khi con bé mất, thầy đặt mảnh gỗ thay cho mộ bia tưởng niệm. Con bé ra đi lặng lẽ với cõi lòng mãn nguyện.

Cuối cùng nó cũng nhận chân ra được chân lý cuộc sống. Nó không còn cô độc giữa đời, cũng không có gì lưu luyến hay giận hờn phiền trách. Thầy hay kể cho nó nghe chuyện cậu bé nhà nghèo cúng nắm đất cho Phật mà được vô lượng phước điền về sau: “Dù nghiệp duyên con phải trả trong kiếp này. Nhưng con vẫn còn đó chút căn lành là được gần gũi quý thầy lại thích nghe pháp. Hơn nữa con cũng biết tạo công đức cúng dường khi đem rải sỏi quanh tịnh thất của thầy. Sau này dù sanh ra ở đâu con đều được an lành với phước báo đã tu tạo”

Thiện Duyênpháp danh thầy đặt cho Sỏi Trắng. Tâm hồn con bé từ một dòng suối khô cạn, bỗng gặp được duyên lành, để từ đó bao mạch nước trong xanh lại dạt dào tuôn chảy.

... Sỏi Trắng không quá ngu ngơ như thầy nghĩ. Cuộc sống cô độc giữa rừng xanh, sự xa lánh của con người làm cho nó e ngại cả khi nghe tiếng lá cây xào xạc. Cha mẹ Sỏi Trắng cùng mắc chứng bệnh phong nên bị người trong bản làng xua đuổi. Họ trôi dạt về ngọn đồi khô cằn này sống lẽ loi xa cách.

Dân ở đây không quá kỳ thị, nhưng người ta vẫn tránh đến gần. Khi họ mất, dân làng đến lo chôn cất. Tuy vậy không ai muốn lãnh nuôi đứa bé. Không còn người thân, Sỏi Trắng chỉ biết sống âm thầm bên ngách cửa rừng với chút ít lương thực mà người trong làng mang đến. Khi con bé ra đời, cha mẹ nó ắt hẳn đã nhìn những viên sỏi nhỏ xinh xinh bên bờ suối mà gọi tên con...

- Thầy sẽ mở một trạm xá cứu chữa chăm sóc cho người bệnh. Trước mắt là cho con bé Sỏi Trắng.

Thầy nói với dân làng như vậy. Sau đó thầy đến bên bờ suối chặt cây đốn tre dựng lên một am thất nhỏ. Hằng ngày Sỏi Trắng vẫn thích làm công việc của mình là quanh quẩn bên bờ suối lượm sỏi đem rải quanh ngôi tịnh thất mới. Mỗi sáng sau khi xả thiền, thầy cũng xuống suối nạo vét đem sỏi lên trải đường. Bao lần đứng nhìn con suối cạn, lòng thầy cứ băn khoăn suy nghĩ. Thầy thường đi sâu vào trong rừng tìm cỏ thuốc. Và rồi một hôm lòng nhiệt thành của thầy cũng được đền đáp khi phát hiện ra thác nước ở tận rẻo núi cao. Thầy nhận ra đây là nguồn nước từng đổ về dòng suối cạn. Do mưa bão lớn lấp đá ngăn mất đầu nguồn, từ đó mà dòng suối bị tắc nghẽn. 

“Bồ Tát cùng chư Thiện thần sẽ bổ xứ cho đệ đến một nơi nào đó để hoằng pháp”

Ngày trước khi nghe mấy sư huynh nói vậy thầy chỉ cười. Phật bổ xứ chắc cũng có ngoại lệ. Xưa nay thầy quen việc đến đi trong cõi tạm. Đâu đâu cũng chỉ dừng chân ít lâu. Có khi tĩnh tọa tham thiền, có lúc ngao du sơn thủy. Đời tu sĩ thích trải lòng cùng sông núi thiên nhiên, thầy chẳng quan tâm hay vướng bận một nơi nào. Vậy mà gió mưa không lay chuyển nổi tảng đá giữa trời xanh, nhưng khe suối cạn nơi heo hút đã làm chùn bước chân đời du phương ẩn sĩ.

Vũ trụ bao la nên ẩn chứa bao điều kỳ diệu. Câu chuyện về con suối cạn đã thông thương dòng chảy không chỉ mang lại sự sống cho người dân quanh vùng, mà cũng thắp lên ngọn lửa về niềm tin chơn lý đạo mầu. Mang ơn người tìm ra dòng nước trong lành, lại ghi nhớ công đức người khai sáng nguồn tâm, từ đó dân lành sống hòa thuận yên vui thấm tình đạo vị.

Thầy đã lấy nơi đây làm trụ xứ hành đạo. Người đã làm nhiều điều lợi ích dân sinh, nhưng lại không thể cứu chữa căn bệnh nan y cho Sỏi Trắng. Người đệ tử đầu tiên được thầy quy y. Cỏ dại đã theo về cùng đất lạnh, nhưng hạt giống lành vẫn không ngừng tăng trưởng. Con đường Sỏi Trắng, ngọn đồi Thiện Duyên là những tên gọi thân tình mà bao người dành cho cô bé. Những đứa trẻ mồ côi, những người bệnh tật neo đơn cũng đã có một nơi chăm sóc an dưỡng.
Bên dòng suối thanh lương, nguồn mưa pháp vẫn dạt dào tuôn chảy.

Theo: hoangphap.info
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2766)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2542)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2668)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2541)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2372)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2452)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3266)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2332)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2422)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2476)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2556)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2223)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2590)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3061)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2656)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2724)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3013)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2575)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2618)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4119)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3080)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3324)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2527)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2812)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2880)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2627)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2639)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3195)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2599)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2608)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2699)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2763)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3280)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2567)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2136)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2607)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2060)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2925)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2959)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2728)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant