Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bên Kia Bức Tường

16 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 14712)
Bên Kia Bức Tường

BÊN KIA BỨC TƯỜNG


Thích Như Điển

(Viết để kỷ niệm nhân 30 năm thuyền nhân Việt Nam có mặt tại Berlin)


Hồi ấy nếu có ai đó muốn đi Berlin từ Tây Đức hay các xứ tự do khác thì phải nói rằng: "quan san cách trở"; nghĩa là khó khăn vô cùng mới xuyên qua được bức tường thành của Cộng Sản Đông Đức. Thời điểm ấy là trước ngày 9 tháng 11 năm 1989. Từ năm 1949 nước Đức đã bị chia đôi. Miền Đông theo chủ nghĩa Cộng Sản và miền Tây theo chủ nghĩa dân chủ tự do. Bức tường Bá Linh được xây dựng lên vào năm 1960 đến năm 1989 là 29 năm lịch sử.

Không ai là không biết những sự kiện lịch sử như thế; nhưng những thế hệ đến sau rất khó hiểu là làm sao bức tường ấy có thể bị sụp đổ được? Đây là lý do chính trị và sự ước vọng tự do của con người; nên nó đã tự hủy hoại bởi ý chí của những con người muốn phá vỡ nó.

Từ Hannover muốn đi đến Berlin thuở ấy, người ta có thể dùng máy bay của Anh. Chỉ 30 phút sau là bạn có thể có mặt tại sân bay Tegel ở Berlin. Sau ngày thống nhất đấu nước (1989) người Anh đã trở về nước và trao trả độc lập lại cho người Đức; nên người Anh cũng như quân đội của Mỹ, Pháp, Nga không còn có lý do gì nữa để ở lại quê hương nầy.

Cách thứ hai, người ta có thể dùng xe hơi hoặc xe lửa để đi từ Hannover, Eisernach, Nürnberg, Hamburg... để đến Berlin. Mỗi nơi như thế đều phải trải qua cả hai lần kiểm soát của bên Tây và hai lần kiểm soát của bên Đông. Marienborn là cửa ngõ để vào Đông Đức. Các nhân viên kiểm soát của Đông Đức mặt mày nghiêm nghị; miệng không bao giờ hở môi. Câu hỏi được đặt ra cho khách đi đường thật là nặng ký. Chẳng biết để làm gì? có lẽ để thị uy cho một chế độ? hoặc giả muốn chứng tỏ cho thế nhân biết rằng: Không ai ưu việt hơn chế độ Cộng Sản Đông Đức lúc bấy giờ?

Trước năm 1975 đã có mấy trăm sinh viên miền Nam Việt Nam sang du học tại Tây Đức và miền Đông Đức thuở ấy cũng có một số sinh viên đi du học từ miền Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa Cộng Sản. Tất cả đều là người Việt Nam; nhưng hai bờ giới tuyến rất rõ nét; người bên nầy và kẻ bên kia, chẳng ai nhìn nhau và thăm hỏi nhau được. Tuy rằng: hai bên vẫn còn nói tiếng Việt, ăn cơm theo phong cách Việt Namtư tưởng không phải thuần của người Việt Nam.

Đến năm 1976 trở đi, Tây Bá Linh đã bắt đầu nhận những người Việt tỵ nạn đến đây từ Lào. Số nầy tương đối ít, chỉ vài trăm người; nên báo chí ít lưu tâm đến. Sau khi cựu Thủ Tướng Tiểu Bang Niedersachsen là ông Dr. Albrecht nhận hơn 2.000 người tỵ nạn đến Hannover từ chuyến tàu Hải Hồng vào ngày 10 tháng 12 năm 1978 thì chính quyền Liên Bang Đức mới có chính sách nhận người tỵ nạn đến Đức qua nhiều diện rộng rãi hơn, như tỵ nạn chính trị, nhân đạo, đoàn tụ gia đình v.v...

Rất ít người muốn đến Berlin thuở ấy. Vì người tỵ nạn quan niệm rằng: Đã trốn chạy Cộng Sản Á Châu rồi; nay qua đây gặp Cộng Sản Âu Châu cũng thế thôi! nên họ ít muốn qua Tây Bá Linh là vậy. Nhưng rất ít người biết rằng: Thành phố Bá Linh là một thành phố rất đặc biệt. Đông Bá Linh do người Nga cai trị; chung quanh được bao bọc bởi bức tường chắn ở ngay giữa thành phố nầy. Tây Bá Linh bị bọc kỹ hơn; giống như một hòn đảo cô đơn của tự do nằm giữa chế độ Cộng Sản và nơi nầy các cường quốc Anh, Mỹ, Pháp cai trị. Đây là cái nhục của nước Đức với kết quả "tranh bá đồ vương" của Hitler thuộc chủ nghĩa diệt chủng. Nhưng sau ngày 9 tháng 11 năm 1989 người Đức đã chứng tỏ cho thế giới về uy quyền của chủ nghĩa tự do là gì !

Muốn vào được Tây Bá Linh phải trình giấy thông hành một lần nữa cho hai bên Đông và Tây Đức. Quả thật đi trong một nước mà giống như đi trong thế giới ban đêm qua thế giới ban ngày; đi từ bóng tối ra cõi ánh sáng. Với đoạn đường từ Marienborn đến Tây Bá Linh chỉ gần 200 cây số mà phải đi đến 4 hay 6 tiếng đồng hồ kể cả thời gian kiểm soát.

Khi người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam có mặt, cũng là lúc nhiều nhu cầu được đặt ra như ma chay, cưới hỏi, Tết nhứt; hoặc lễ Phật Đản, Vu Lan v.v... Những năm 78, 79, 80 mỗi năm tôi thường hay qua Bá Linh nhiều lần để tham dự các đám tang hoặc giảng pháp. Sau đó Chi Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại đây được thành lập; cho đến bây giờ chắc cũng đã gần 30 năm rồi. Những năm đầu tương đối vất vả; các anh chị em Phật tử và các Bác Đạo Hữu lớn tuổi phải mượn chùa của người Đức ở Frohnau để làm lễ. Hoặc tổ chức tại tư gia. Sau đó, qua việc thông dịch giúp đỡ người tỵ nạn của Đạo Hữu Trực Ngộ Phạm Ngọc Đảnh; ông ta đã liên hệ với Hồng Thập Tự Berlin và nhờ Hồng Thập Tự giúp đỡ tài chánh để Chi Hội có phương tiện thuê nơi chốn làm Niệm Phật Đường. Qua sự giúp đỡ ấy trong vòng 10 năm và qua 2 lần đổi địa chỉ Niệm Phật Đường đã đón nhận và mời gọi biết bao nhiêu con người yêu chuộng tự do đến đây để tạm trú trong thời gian chờ đợi ra trình diện chính quyền sở tại vào những ngày sau 9 tháng 11 năm 1989.

Đúng là:

"Mái chùa che chở hồn Dân Tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ Tông"

Dĩ nhiên ngoài chùa ra còn có các Hội Đoàn Việt Nam của Người Việt Tự Do tại Bá Linh cũng giúp đỡ cho người tỵ nạn nữa; nhưng nay thì thời buổi hội nhập đã qua rồi; chỉ còn sống để bảo tồn và phát triển văn hóa tại đây; nên đa phần ai lo việc nấy; ít ai lo dùm cho ai nữa. Chỉ còn mái chùa Linh Thứu tại Bá Linh là vẫn còn đó qua 2 lần tạo mải, để nay mai sẽ sừng sững tại Bá Linh một ngôi chùa là còn vui buồn với nhân thế mà thôi.

Bây giờ nhiều người lớn tuổi đã ra đi; chỉ còn thế hệ con cháu ở lại, ngậm ngùi đưa tiễn những người thân của mình vào lòng đất lạnh, hay mang tro cốt của họ trở lại quê hương sau bao nhiêu năm sống gởi nơi xứ người. Theo sự đánh giá của những cơ quan công quyền Đức thì người Việt Nam chúng ta là một trong những dân tộc đứng đầu vào sự hội nhập tại Đức nầy. Riêng phần giáo dục gia đìnhgiáo dục học đường, người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đều thành công; hơn 60% con em của chúng ta đều có mặt tại các trường Trung Học Đức. Có nhiều nơi tỷ số thông minh và học giỏi vượt quá xa người bản xứ. Ở đây chúng ta có thể lấy thí dụ của Dr. Philipp Rößler làm điển hình. Những ngày tháng đầu năm 1973 ông ta được sinh ra tại Sóc Trăng, Việt Nam; sau đó được Cô nhi viện Thiên Chúa giáo tại đó chăm sóc ông ta. Đó là một con người không biết mặt cha mẹ mình; không có một quê hương chắc thật; ngay cả không có tên gọi thuở ấy, mà nay sau 38 năm ở tại xứ Đức nầy ông ta đã là: Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế và Giao Thông tại Tiểu Bang Niedersachsen. Rồi Bộ Trưởng Kinh Tế Liên Bang và nay (2011) là Đảng trưởng Đảng FDP, Phó Thủ Tướng của Cộng Hoà Liên Bang Đức kiêm Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Liên Bang. Trong tương lai, Việt Nam chúng ta ở tại Đức hy vọng sẽ có được nhiều Rößler như vậy. Chúng ta đến đây không phải chỉ để chia xẻ tự do với người Đức; đón nhận tấm lòng từ thiện của chính quyền và các cơ quan từ thiện Tôn Giáo, mà chúng ta còn phải có bổn phận đóng góp công sức, tài năng, thuế má cho nơi nầy, để xây dựng quê hương thứ hai nầy được giàu mạnh hơn; mặc dầu quê hương nơi chúng ta được sinh ra, chúng ta muốn cộng tác, giúp đỡ; nhưng chủ nghĩa chính là sự ngăn cách đôi bờ, ít có người Việt nào mạo hiểm dám buông lơi hai chữ Tự Do. Tục ngữ Nga có câu: "Khi người ta mất tự do rồi, lúc ấy mới thấy giá trị của sự tự do là quý". Đúng vậy! những gì người ta đánh mất đi người ta mới thấy quý; lúc ấy hẳn đã quá trễ rồi. Vì sao thế? Vì "Đứng gần núi không bao giờ thấy núi cao. Khi xa núi rồi mới thấy núi cao". Đó là tục ngữ của Trung Quốc. Còn tục ngữ Việt Nam chứng minh cho việc nầy là: "Khi còn cha mẹ ít ai để ý đến cha mẹ, khi cha mẹ mất đi rồi, lúc ấy mới tiếc thương, thì đã trễ quá rồi".

Do vậy tri ân, cảm tạ là những điều nhân nghĩacon người không thể quên được; nhất là ai đã cưu mang chúng ta sống trong xã hội tự do nầy, để cho con cái của chúng ta được thành trưởng như ngày hôm nay? Nếu không phải nói là chính quyền và nhân dân Đức cũng như bao nhiêu chính quyền tự do khác đã cưu mang gần 3 triệu người tỵ nạn Việt Nam từ 1975 cho đến nay trong đó có gần 100.000 người Việt Nam tại Đức.

Năm nay 2011 các anh chị em tại Bá Linh làm lễ kỷ niệm tri ân người Đức và chính quyền sở tại lần thứ 30 để nói lên tấm chân tình "uống nước nhớ người đào giếng". Có như thế mới khỏi hối hận về sau là: phải chi hồi ấy tôi đã làm..., phải chi là điều không thực tế, mà hãy bắt tay để hướng về và tổ chức ngày lễ tri ân nầy là điều đáng nên làm vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2330)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2418)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2552)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3013)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2726)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant