Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đùa chơi với khổ

23 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 16385)
Đùa chơi với khổ

blank
Khổ là một sự thực của cuộc sống con người, nếu bạn không biết đùa chơi với nó là bạn đã mất đi rất nhiều cơ hội để tiếp xúcnhận diện sự thực, đồng thời bạn cũng đã mất đi rất nhiều cơ hội để trưởng thành và hiểu được ý nghĩa đích thực của hạnh phúc.

Bạn hãy thực tập đùa chơi với khổ đau như ngày xưa Đức Phật đã từng đùa chơi với chúng. Tại Vườn Nai, Đức Phật đã nói với năm anh em Kiều Trần Như rằng: “Đây là khổ. Đây là tập. Đây là diệt. Đây là đạo. Đây là khổ nên biết. Đây là tập nên đoạn. Đây là diệt nên chứng. Đây là đạo nên tu. Đây là khổ Ta đã biết. Đây là tập Ta đã đoạn. Đây là diệt Ta đã chứng. Đây là đạo Ta đã tu”.

Đức Phật nói: “Đây là khổ”. Như vậy, Ngài đã nắm trọn vẹn cái khổ như nắm trọn vẹn một trái cam trong lòng bàn tay và thanh thản nhẹ nhàng đưa nó lên và xoay nó mọi chiều cho mọi người cùng thấy. Không những Ngài chỉ nắm trọn vẹn mọi hình thái biểu hiện của khổ đau mà còn nắm trọn vẹn bản chất và mọi đặc tính của nó nữa, để chỉ rõ cho những ai có mắt thì có thể thấy, và những ai có trí thì ngay đó, có thể nhận ra mọi sự thực của vấn đề.

Đức Phật nói: “Đây là khổ”, nghĩa là Ngài muốn ta mở to đôi mắt ra để trực diện và đùa chơi với khổ đau như đùa chơi với những trẻ thơ, hoặc đùa chơi với trái cam trong lòng bàn tay, hay đùa chơi với một chiếc bong bóng mà không phải nhắm đôi mắt lại, hay tránh né và quay lưng với nó.

Đức Phật nói: “Đây là khổ”, nghĩa là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn và trực diện với nó như trực diện với người yêu. Bởi lẽ trong mỗi chúng ta không bao giờ có cái yêu đơn thuần mà yêu là do liên hệ. Liên hệ giữa bên này và bên kia; liên hệ giữa người này và người kia; liên hệ giữa chủ thể và đối tượng; liên hệ giữa khát ái với âm thanh, sắc tướng, mùi vị và xúc chạm; liên hệ đến những khát khao, tìm kiếm và đuổi bắt, liên hệ với những ảnh tượng tồn đọng trong tâm thức đã biến thái, để trở thành chủng tử nhân duyên không phải chỉ một đời, hai đời mà nhiều đời và sự liên hệ ấy, không phải chỉ ở cõi này mà còn ở cõi kia; không phải chỉ ở thế giới này mà còn ngay cả ở thế giới của bên kia nữa. Khi tình yêu trào dậy, ta mở to đôi mắt để trực diện với người yêu như thế nào, thì khi khổ đau trổi dậy trong ta, ta phải mở to đôi mắt để trực diện với những khổ đau trong ta, cũng đúng như thế ấy. Ta mở to đôi mắt thấy rõ khổ đau không phải là để sợ hãi, không phải là để tránh né mà để thương và để đùa chơi với nó, và giúp nó cùng ta sánh vai để đi lên.

Ta hãy nhìn sâu vào sự hiện hữu của những nỗi khổ đau trong ta, để thấy rõ nó vốn không có tự tính, nó hiện hữu cũng cần phảiđiều kiện, hễ có điều kiện thích hợp với nó thì nó phát sinh và tồn tại; nếu khôngđiều kiện thích hợp với nó thì tự nó ẩn diệt và tiêu vong. Khổ đau là vô thường như bất cứ sự vô thường nào của mọi sự hiện hữu, vì biết chắc như vậy, nên ta nhìn nó để mỉm cườithương yêu.

Ta hãy nhìn sâu vào những nỗi khổ đau ở trong ta, để ta có thể đồng cảm với những nỗi khổ đau của người khác, của đồng loại và ngay cả mọi loài mà đừng bao giờ có những lời nói, có những hành động hay có những ý nghĩ khiếm nhã đối với tất cả họ. Và ta mong rằng, trong thế giới con người đừng ai khiếm nhã với ai, và trong thế giới của muôn loài đừng có loài nào đối xử khiếm nhã với loài nào. Loài mạnh thì biết bảo vệ loài yếu, người giàu thì biết giúp đỡ người nghèo, người trí thì biết tìm đủ mọi cách để nâng đỡ kẻ ngu.

Bởi vậy, ta hãy mở to đôi mắt để nhìn sâu vào trong lòng của mọi sự khổ đau để biết một cách chắc chắn rằng, khổ đau là ở đây mà không phải ở nơi kia, biết vậy là ta đã có khả năng để đùa chơi với nó mà chẳng có chút gì là sợ hãi.

PHAT HOC 624-a.jpg

Đức Phật nói: “Đây là tập”, tức là những tập khởi của khổ đau. Như vậy, Đức Phật đã thấy, biết và nắm trọn vẹn tất cả sự huân tập và lưu hiện của những chủng tử khổ đau. Ngài muốn ta không phải chỉ nhìn những hình thái biểu hiện của khổ đau mà hãy mở to đôi mắt nhìn sâu, nhìn xuyên suốt vào trong lòng của những khổ đau, để thấy rõ và ôm lấy những hạt giống khổ đau đang huân tậpvận hành ở trong ta, để soi sáng, thương yêuchuyển hóa. Nếu ta không mở to đôi mắt nhìn sâu vào trong lòng của khổ đau, thì làm sao ta có thể thấy rõ và ôm lấy những hạt giống khổ đau để soi sáng, thương yêuchuyển hóa, và nếu ta không chuyển hóa được những hạt giống khổ đau trong lòng ta, thì làm sao ta có thể thoát ly được những tính chất và mọi hình thái biểu hiện của nó, và thử hỏi ta chạy đường nào cho thoát khỏi?

Đức Phật nói: Đây là tập khởi của những khổ đau, chứ không phải những tập khởi của khổ đau có từ nơi nào. Như vậy là Ngài muốn chỉ cho ta thấy rằng, tập khởi của những khổ đau, nếu có mặt thì chúng đang có mặt ở trong thân tâm này, chứ không phải ở nơi thân tâm nào khác. Nghĩa là ở nơi thân tâm này có vô minh, có tham ái, có sân hận, có si mê, thì ở nơi thân tâm này có những tập khởi của khổ đau, chứ không phải tập khởi của những khổ đau nằm ở nơi thân tâm nào khác.

Ta hãy nhìn sâu vào tập khởi của những khổ đau ở trong thân tâm ta, để ta ôm ấp, soi sángchuyển hóa. Ta có khổ đau, vì trong ta có vô minh. Ta có khổ đau, vì trong ta có tham dục. Ta có khổ đau, vì trong ta có những hạt giống giận hờn và trách móc. Ta có khổ đau và thất vọng, vì trong ta có những tri giác sai lầm về một bản ngã cố hữu ở nơi sắc thân, về một bản ngã cố hữu ở nơi mọi cảm giác, về một bản ngã cố hữu ở nơi tri giác, về một bản ngã cố hữu ở nơi những chủng tử tâm hành và về một bản ngã cố hữu ở tận chiều sâu của tâm thức. Và ta có khổ đau là do ta có những tri giác sai lầm về một bản ngã cố hữu ở nơi tự thân, ở nơi con người, ở nơi mọi chúng sanh và ở nơi mọi sinh mệnh. Ta có khổ đau và thất vọng, vì do vô minhtri giác trong ta đã vẽ ra cho ta một cái ta hư ảo. Không những hư ảo trong hiện tại mà còn hư ảo ngay cả quá khứ và tương lai; không những vẽ ra sự hư ảo ở nơi thế giới này mà còn vẽ ra cho ta những sự hư ảo ở tận nơi thế giới bên kia. Ta khổ đau và thất vọng, vì tri giác sai lầm của ta đã tách ta ra khỏi thế giới hòa điệu nhất như tuyệt đối, để khiến ta đuổi bắt một bản ngã ở trong thế giới ảo tưởng, phù hư.

Ta hãy nhìn sâu vào những tập khởi của những khổ đau trong ta, để thấy rõ chúng vốn không có tự tính, chúng tập khởi cũng cần phải có những điều kiện thích ứng, nếu không có những điều kiện thì chúng cũng không thể nào huân tập và khởi hiện. Chúng là vô thường như bất cứ sự vô thường nào của mọi sự hiện hữu, vì biết chắc như vậy, nên ta ôm ấp nó để mỉm cườichuyển hóa.

Ta không những chỉ nhìn sâu vào những tập khởi của khổ đau, mà còn nhìn sâu vào mọi hình thức huân tập và biểu hiện của chúng, cũng như những cá tính và bản chất của chúng để thay chốt. Ta thay chốt vô minh bằng tỉnh giác, tham ái bằng buông xả là tức khắc những tập khởi của mọi khổ đau đều được chuyển hóa.

Mỗi khi vô minhtham ái trong tâm ta đã được thay chốt, thì vô biên phiền não trong ta cũng tùy theo đó mà được tảo trừ.

Vậy, Đức Phật nói: “Đây là tập” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt không phải chỉ để nhìn trực diện mà nhìn sâu, nhìn xuyên suốt mọi hình thái huân tập và biểu hiện của những chủng tử tạo nên khổ đau, cũng như những cá tính và bản chất của chúng, để ôm ấp, mỉm cười, đùa chơi và chuyển hóa.

Đức Phật nói: “Đây là diệt” là Ngài muốn cho ta thấy rõ hạnh phúcan lạc là ở đây, ở ngay nơi thân tâm này, ở ngay nơi hiện thế và ở ngay nơi cuộc đời này. Ở ngay nơi thân tâm ta vắng bặt hoàn toàn những tập khởi của khổ đau, thì hạnh phúcan lạc đích thực có mặt. Hạnh phúc và sự an lạc đích thực không phải là mọi hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm bên ngoài hay những ảnh tượng tồn đọng trong tâm thức ta, mà ta phải biết đình chỉ những chủng tử vô minhkhát ái ở trong ta, vì chúng là tác nhân, khiến ta đang bị vướng mắc vào những cái đó. Ta hạnh phúc là ta sống giữa lục trần mà tâm ta không bị điều động bởi vô minh và không hề bị vướng mắc bởi tham ái.

Đức Phật nói: “Đây là diệt” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy rõ, tập khởi của những khổ đau có mặt ở chỗ nào thì ta phải dập tắt chúng ở chỗ đó. Chủng tử khổ đau đã bị diệt tận, thì mọi hình thái khổ đau không còn biểu hiện, nên tự tính của diệt là vô sinh hay Niết bàn.

Như vậy, Đức Phật nói: “Đây là diệt” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn sâu vào những tập khởi của khổ đau, để thấy rõ bản thể của chúng xưa nay vốn là tịch diệt để ta mỉm cườithong dong vui chơi trước muôn ngàn hiện tượng diệt sinh của vạn hữu.

Đức Phật nói: “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn thấy đạo chính là đây, chính ngay ở nơi thân tâm nầy, chính ngay ở nơi mỗi phút giây của sự sống trong ta, quanh ta và chính ở ngay nơi cuộc đời này đây, chứ không phải ở bất cứ nơi nào xa lạ.

Chính ngay ở nơi mọi hình sắc, mọi cảm giác, mọi tri giác, mọi chủng tử tâm hành, và mọi nhận thức mà thấy đạo, thực nghiệm đạo và chứng nghiệm đạo và cũng chính từ đó mà giải thoát. Chính ngay ở nơi sáu quan năng của nhận thức, sáu đối tượng của nhận thức và ngay nơi sự biểu hiện của các nhận thức mà thấy đạo, thực nghiệm đạo, chứng nghiệm đạo và thành tựu đạo giải thoát. Nói rõ hơn là ngay ở trong lòng của những khổ đau, của những tập khởi của khổ đau mà thấy đạo, thực nghiệm đạo, chứng đạothành tựu đạo giải thoát.

Đức Phật nói: “ Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy rõ “đạo” ngay trong lòng của các pháp duyên khởi, và cũng thấy rõ “diệt” ngay từ nơi các pháp duyên khởi ấy. Và Ngài nói “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt nhìn sâu vào tâm ta, để thấy rõ ngay “đạo là bồ đề”. Tu đạo là hành bồ đề. Chứng đạochứng nhập bồ đề. Hành đạo là chuyển tải hạt giống trí tuệtừ bi đi vào cuộc đời, nhằm tạo mọi cơ duyên để cho mọi người và mọi loài phát triển tâm bồ đềchứng nhập tâm ấy một cách toàn vẹn.

Như vậy, Đức Phật nói “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy, để biết khổ đau ở đâu thì những tập khởi của những khổ đau ở đó; khổ đau và những tập khởi của khổ đau ở đâu, thì đạo ở đó. Và đạo ở đâu thì chứng nghiệm tịch diệtthể nhập Niết bàn, hạnh phúcan lạc ở đó.

Bởi vậy, bấy giờ tại Vườn Nai, Đức Phật đã nói cho năm anh em Kiều Trần Như rằng: Đây là khổ; đây là tập; đây là diệt; đây là đạo, là đã bao hàm trọn vẹn mọi ý nghĩa của cuộc sống con người và đã giải quyết mọi vấn đề của con người một cách tích cực để thăng hoa.

Do đó, thăng hay trầm, khổ đau hay hạnh phúc của cuộc sống con người, khi mà ta chưa biết rõ gốc rễ và ngọn ngành của nó, thì nó khiến cho ta có nhiều nỗi băn khoăn và kinh hãi, nhưng khi ta đã biết rõ mọi gốc rễ và ngọn ngành của chúng, thì những nỗi băn khoăn và kinh hãi ngày ấy sẽ biến làm mây lành che mát và tưới tẩm trần gian. Những giận hờn và trách móc ngày hôm qua, nay đã trở thành nụ cuời an lạc ngay trong từng phút giây của sự sống.

Vậy, ta xin chắp đôi tay búp sen an trú hoàn toàn trong chánh niệm để cám ơn Đức Phật, cám ơn đời và cám ơn những nỗi khổ đau một cách sâu xa!

Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2345)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2433)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3246)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2192)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2986)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2587)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4084)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3063)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3304)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2499)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2997)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2627)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2473)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3264)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2047)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2901)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant