Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 20007)
Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

NGÀY VỀ NGUỒN - TƯỞNG NIỆM HÀNH TRẠNG CỦA CHƯ VỊ THIỀN SƯ, TỔ ĐỨC

(Bài đọc hai)

{Xem bản PDF}

Nền văn học dân gian Việt Nam luôn ca tụng và nhắc nhở đàn con, cháu luôn tưởng nhớ và giữ gìn tinh thần Cội Nguồn Tổ Tiên Làng Nước. Dù sống dưới bất cứ hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, giá trị đích thực của đạo đức lễ nghi, nhân nghĩa vẫn là cái tình Nhớ Nước, Thương Nòi, để phát huy và bảo tồn một nền văn hóa đặc thù, cao đẹp của dân tộc Việt nam. Nền văn hóa cao đẹp ấy, nhân bản ấy, chính là: “Uống nước nhớ nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Chim có Tổ người có Tông.”

Nền văn học của Phật Giáo Việt Nam luôn dạy đến hàng hậu học, tử tôn phải biết nhớ ơn và đền ơn đến chư bậc Lịch Đại Tổ Sư, Ân Sư, Tôn Sư… một thời đã khai sinh Giới Thân Huệ Mạng, đã nuôi lớn chúng ta trên con đường sơ phát tâm xuất gia để hoàn thành chí nguyện thượng cầu hạ hóa. Chí nguyện ấy, hình ảnh ấy, chư bậc Tổ đức đã dựng thành: “Phù xuất gia dã, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục. Thiệu long Thánh Chủng chấn nhiếp ma quân, dụng báo Tứ ân, bạt tế tam hữu.” Luận về người xuất gia, mỗi bước chân đi là mở ra một phương trời cao rộng, thoáng đạt, thân tâm không giống người thế tục , phàm tình, để nối nghiệp chư vị Long tượng Thạc đức nơi chốn thiền gia mà gieo trồng hạt giống Thánh quả. Từ giá trị cao quý của sự tu tậpchứng đắc Thánh quả ấy mà hàng phục được quân ma, để trên đền đáp bốn ơn, dưới cứu khổ ba đường. Trên là lời huấn thị, sách tấn của chư vị Tổ Đức vì lý tưởng tu họcphụng sự của chúng ta, hàng hậu học hôm nay, có lẽ nào chúng ta lại không nhớ và nghĩ. Nhớ là để không quên mình, và nghĩ để biết mình đang ở đâu, mà đền ơn đáp nghĩa như lời Tổ Đức đã dạy.

Từ tâm thức của hàng hậu duệ, của người, của hàng thế hệ lâu sau, tưởng niệm về những hành trạng, những công hạnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức là những tấm gương sáng chói được treo cao mà một thời chư Tổ đã dày công tu tập, để góp phần vào công việc hộ quốc an dân, xây dựng một đời sống thái hòa, an cư, lạc nghiệp.

ý nghĩa cao cả, kính quý của sự nhớ ơn và đền ơn ấy, trong chốn nhà Thiền, trong các Tòng Lâm, Tự Viện, cứ mỗi nửa tháng có lễ Thù Ân Chúc tán, tất cả Tăng chúng thảy đều lễ lạy, mong đền đáp ơn sâu trong muôn một. Chúng ta lắng lòng trầm tĩnh ý vị thuần hòa, yếu chỉ thiết tha của lời kệ thán:

“Đại viên mãn giác, ứng tích tây càn. Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới. Ngưỡng khấu hồng từ, phủ từ minh chứng…Lương thần, vân tập Tăng chúng, đăng lâm bảo điện, phúng diễn bí chương, xưng dương gia hiệu, sở tập hồng nhân, đoan vị chúc diên…

Phục nguyện: Kim luân vĩnh trấn, ngọc chúc thường điều. Bát huyền an hữu đạo chi trường. Tứ hải lạc vô vi chi hóa, ngưỡng lao đại chúng đồng niệm Kim Cang Vô Lượng Thọ, hộ quốc nhơn vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Tuệ giác viên mãn, lưu dấu phương Tây. Tâm trùm thái hư, lượng khắp pháp giới. Ngưỡng mong hồng ân từ bi chứng giám…”

Tăng chúng vân tập lên bửu điện, phúng tụng pháp vi diệu, xưng tán tôn danh, góp công đức lành, xin cùng dâng lên…Phật Pháp trường tồn, trí tuệ rạng soi, bốn biển vui niềm pháp vị. Ngưỡng mong đại chúng nhất tâm niệm Phật.

Đây là một tấm lòng, là tâm thành cầu nguyện cho hết thảy mỗi loài, được no đủ bình an, cho quê hương dân tộc, nhà nhà được hưởng thái bình, nơi nơi âu ca lạc nghiệp. Là cái chân thật, tánh đức vị tha. Là cái ân cái nghĩa, đâu chúng ta không nhớ, không đền? Ấy là chất liệu sống, là giá trị hiến dâng mà mỗi bước chân đi trên con đường hoằng hóa của chư Tổ đã in sâu trên dòng lịch sử. Dấu ấn ấy, hành trạng ấy được lưu lại muôn đời cho chúng ta phụng hành.

Từng chặng đường lịch sử hoằng hóa, từng công hạnh vị tha hiển lộ của chư vị Thiền Sư Tổ Đức chúng ta thấy Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) mang hành trạng tạo thành một trong những dòng Thiền của Phật Giáo Việt Nam. Và để từ đó được tiếp tục truyền thừa tâm ấn cho ngài Pháp Hiển…Một khi công viên quả mãn, hạnh nguyện lợi đạo ích đời đã hoàn tất thì Chư Tổ thâu thần thị tịch, chích lý Tây qui, nhưng đâu, những người còn lại mà không nhớ ơn và đền ơn. Vua Thái Tôn (1028-1054) đã làm bài kệ truy niệm tán dương công đức của Tổ:

“Sáng tự Nam lai quốc,

Văn quân cửu tập Thiền.

Ứng khai Chư Phật tín,

Viễn hợp nhất tâm nguyên.

Hạo hạo lăng già nguyệt,

Phân phân Bát Nhã liên,

Hà thời hạnh tương kiến

Tương dự thoại trùng huyền.”

Dịch:

“Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học Thiền.

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng già ngời bóng nguyệt

Bát Nhã nức mùi sen,

Biết được bao giờ gặp

Cùng nhau kể đạo huyền.”

(Việt Nam Phật Giáo sử lược trg 77. T-T Mật Thể)

Hành trạng của Tổ đã cảm hóa được nhà vua, triều đình để rồi tự tay nhà vua làm kệ tán thán lưu lại hậu thế muôn đời. Đó chính là cái ân, cái đức đối với người sau.

Chúng ta thường nghe: “Nhứt tự vi sư, bán tự diệc vi sư.” Một chữ là thầy, mà nửa chữ cũng là thầy. Đó là cái ơn dạy bảo của thầy mà người học trò phải nhớ ghi, trân trọng.

Để thấy được hạnh nguyện của người xưa mà mình vuông tròn đạo lý. Pháp Sư Phụng Đình du hóa bên Trung Quốc, giảng kinh nơi cung nội của vua Đường, khi trở về lại An Nam – Việt Nam, thi hào Dương Cự Nguyên còn làm thơ tiễn biệt để nhớ ơn:

“Cố hương Nam Việt ngoại

Vạn lý bạch vân phong

Kinh luận từ thiên khứ

Hương hoa nhập hải phùng

Lộ đào thanh phạm triệt

Thần cát hóa thành trùng

Tâm đáo trường an mạch

Giao Châu hậu dạ chung.”

Dịch:

“Quê nhà trông cõi Việt

Mây bạc tít mù xa

Cửa trời vắng kinh kệ

Mặt bể nổi hương hoa

Sóng gợn cò in bóng

Thành xây hến mấy tòa

Trường an lòng quất quít

Giao Châu chuông đêm tà…”

(Sđd Tr. 89-90)

Con người có tình, có nghĩa, có thủy, có chung thì sự nhớ ơn và đền ơn là đức tính tự nhiên như hương hoa của mặt đất; như trái ngọt, lá xanh của núi rừng, như nắng ấm ban mai, gió lùa buổi tối. Không ai mời, cũng chẳng kẻ gọi mà phải cưu mang; cưu mang như một tấm lòng thành thiết, ân sủng.

Để thấy thêm ý vị đậm đà của lòng tưởng nhớ, của sự kính trọng tôn vinh chư vị Thiền Sư Tổ Đức mà chính bản thân mình một thời đã thọ ơn dù trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít, thân hay sơ, vẫn luôn là niềm quý kính, hình ảnh, ngôn từ mãi tồn đọng rạt rào nơi tâm thức.

Ngài Ngô Chân Lưu sống dưới triều của Đinh Tiên Hoàng, thật đức hiển lộ, giáo pháp tinh nghiêm đã làm cho nhà vua kính phục, và sắc phong ngôi vị Tăng Thống, rồi sau đó lại tôn phong là Khuôn Việt Thái Sư, làm thầy của vua, giúp đỡ sửa sang nước Việt. Về sau đến triều đại vua Lê Đại Hành càng được kính trọng hơn. Bao nhiêu việc trọng đại của triều đình, của nước của dân đều được thỉnh ý Ngài. Vào năm 986 Thiên Phúc thứ bảy, Tiền Lê, nhà Tống sai sứ giả là Lý Giác sang nước Nam, nhà vua thỉnh ý và cầu Ngài tiếp sứ Tầu Lý Giác. Trong cuộc tiếp xúc này, Khuôn Việt Thái Sư đã để lại trong lòng Lý Giác một sự kính phục sâu xa, một cảm tình nồng ấm qua bài thơ:

“Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du

Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu

Đông đô tái biệt tâm lưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm chu.”

Dịch:

“May gặp minh quân giúp việc làm

Một mình hai lượt sứ miền Nam

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm

Ngựa đạp may bay qua suối đá

Xe vòng núi chạy tới giòng lam

Ngoài trời lại có trời soi rạng

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đàm.”

(Sđd. Tr. 110-111)

Người dân nước Tầu thời bấy giờ còn có lời ca ngợi chúc tụng quê hương nước Việt.

Chư vị Tổ Đức, Thiền Sư một thời đã đem công hạnh tu tập, thi thiết Đại Bi Tâm để tế độ, làm cho Tổ Ấn Trùng Quang, đèn nhà thiền rạng rỡ, cho hàng con cháu soi chung. Đó là cái ân, cái đức, đâu lẽ nào chẳng nhớ, chẳng nghĩ. Chư vị Thiền Sư Tổ Đức không phải chỉ một lòng phát huy tông môn pháp phái, đạo pháp trường lưu mà còn đem chí nguyện an bang tế thế, giúp vua làm nên nghiệp cả, để giữ vững giềng mối nước nhà, an bình xã tắc. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi Pháp Thuận Thiền Sư, Người đã hóa thân vào đời làm lão chèo đò để đưa sứ Tầu Lý Giác trên sông, lấy thơ văn làm phương tiệnhóa độ.

“Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.”

Dịch:

“Song song ngỗng một đôi

Ngửa mặt ngó ven trời

Lông trắng phơi giòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi.”

(Sđd. Tr. 114)

Hành trạng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vì hạnh nguyện dấn thân vào đời nên dưới bất cứ quốc độ, hình hài, phương tiện nào cũng thể hiện tầm tay đẩy bánh xe Bi Trí song vận, để phước huệ được trang nghiêm vận đức từ cho đạo đời nhuần thắm. Công ấy, đức ấy được ghi lại cho người sau, làm nét sử son lưu truyền muôn thuở, làm quy cũ, mô phạm để thăng hoa tài đức cứu người, giúp vật thoát vòng đao binh khói lửa, dựng xây nền Phật lý cơ đồ nghìn sau còn noi dấu. Có lần vua Lê Đại Hành hỏi về việc nước, Ngài trả lời bằng bài kệ:

“Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiênthái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.”

Dịch:

“Ngôi nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

Trên điện không sanh sự

Đâu đó dứt đao binh.”

(Sđd Tr. 114)

Công hạnh tu chứng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức đã hiển lộ qua hành trạng cứu đời, hộ đạo, tinh thần nhập thế của Bồ Tát Hạnh được thể hiện qua công cuộc hoằng hóa nơi đây.

Vạn Hạnh Thiền Sư đời nhà Lý, đã thực hiện tinh thần Vạn Hạnh Dung Thông. Ngài đem sở học của mình để giúp đời, thành tựu công trạng, vang danh chứng tích huy hoàng, người kính phục, nhưng những sự thành tựu ấy đứng trên mặt tu tập chứng đắc thì dưới cái nhìn của Ngài như giọt sương rơi đầu cành, không mê say, sở hữu. Đó chính là chỗ diệu dụng của bậc tu chứng: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, phương tiện muôn trung bất xã nhất pháp.” Nơi miền chơn đế, thật tánh, thật chứng, chẳng hề mảy may thọ dụng vì “nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” thì có gì để thọ, để giữ. Nhưng nếu là phương tiện tế độ thì Ngài chẳng bỏ một điều nào để ứng cơ lợi vật. Chúng ta thấy bài kệ truy tán của vua Lý Nhân Tôn sau khi Ngài thị tịch, đã nói lên công hạnh độ đời, chứng đạo của Ngài.

“Vạn Hạnh dung tam tế

Chơn phù cổ sấm ky

Hương quan danh cổ pháp

Trụ tích trấn vương kỳ.”

Dịch:

“Thiền sư học rộng bao la

Giữ mình hợp phép sấm ra ngoài lời

Quê hương cổ pháp danh ngời

Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô.”

(Sđd Tr. 121)

Cho đến bây giờ khi đọc lại dòng lịch sử của triều đại nhà Lý, ai trong chúng ta cũng đều nhớ đến công hạnh mở mang triều đại nhà Lý huy hoàng để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi cửu trùngcông đức của Ngài. Cái ơn ấy, cái đức ấy, ai ai cũng đều tưởng nhớ mà đi theo dấu chân còn in đậm trên dòng sử Phật Việt. Đối với thế gian pháp thì thi thố tài năng hộ quốc an dân, phụng sự sơn hà xã tắc để cho muôn dân được thịnh trị thái hòa. Còn xuất thế gian pháp thì thực chứng lý sự vô ngại, nhơn pháp câu khôngtrở về với bản lai diện mục của pháp giới tánh, an nhiên tự tại trong sự thịnh suy của cuộc đời, như bài kệ trước khi thị tịch:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Dịch:

“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.”

(Sđd Tr. 120)

Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận, từ thế hệ này đến thế hệ khác vô cùng. Đó là sức sống của đạo pháp đã trải qua mấy nghìn năm mà hình ảnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vẫn sáng ngời trong tâm thức mỗi người chúng ta.

Hình ảnh chùa Một Cột, tiếng chuông Tháp Phổ Thiên như ăn sâu vào tâm khảm Phật Giáo Việt Nam bao đời thăng trầm dâu bể. Hay dầu mòn đường lên núi Yên Tử, tìm lại vết tích xa xưa một thời mà “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” tọa thiền bên vách đá. Hình bóng Ngài trải dài trên quê hương nước Việt tứ Bắc chí Nam như một bài thiền ca miên man, vi vu, tuyệt diệu, hòa quyện với núi đồi, biển xanh man mát dệt thành dòng Thiền thuần vị của Phật Giáo Việt Nam.

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13269)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13896)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10682)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14810)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20744)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13562)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14272)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12302)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12816)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14389)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14375)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15691)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 13019)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17423)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15737)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12497)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12481)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14044)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 16005)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13630)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14974)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14509)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13603)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13460)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11718)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13849)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12981)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14939)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12600)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17432)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16438)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14590)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14844)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26812)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14716)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13611)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13827)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13728)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 15017)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15349)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14053)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14975)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13798)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14708)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14690)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16673)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18250)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27183)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23742)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26478)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant