Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về chữ Phật được tặng

29 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 21481)
Về chữ Phật được tặng

LTS: Tháng Giêng đã qua, Tết đã lắng, nhưng khi nhận được bài này, chúng tôi đọc chầm chậm, để cảm!

1. Đó là một ngày mùa xuân có mưa phùn ở Hà Nội. Đã là những ngày đầu năm mới rồi, thế nhưng cái rét căm căm vẫn chưa thôi thổi lạnh lẽo vào lòng miền Bắc. Hôm ấy là mùng 5 Tết.

Đây là lần đầu tiên tôi đón Tết ở thủ đô, nơi rất xa quê nhà. Tết ở Hà Nội cũng khá khác biệt so với miền Nam. Tôi nghe kể rằng ở đây mọi người thường nô nức đi chùa hành hương vào những ngày đầu năm mới, bất chấp mưa và gió rét. 

Mùng 5 còn là lễ hội ở gò Đống Đa, nơi kỷ niệm chiến thắng trận Ngọc Hồi - Đống Đa của Tây Sơn trước triều Mãn Thanh và kết thúc thời Hậu Lê lịch sử năm 1789. Vì thế không ngạc nhiên khi chỉ mới mùng 5 Tết mà đường xá Hà Nội, đặc biệt quận Đống Đa lại vô cùng tấp nập.

chuphatduoctang-tungoc

Chữ Phật mà tôi được tặng hồi mùng 5 Tết, là một lời nhắc quay về nương tựa Phật trong tôi - Ảnh: Từ Ngọc

Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó, và điều đó khiến chúng tôi vững tin hơn trên con đường mà mình đã chọn, khi biết bên cạnh mình vẫn còn nhiều chúng sanh cũng khao khát tu học, hướng đến giác ngộ Phật tánh uyên nguyên trong mỗi chúng ta.

Tôi ghé thăm phố ông Đồ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Thư pháp vốn là một môn nghệ thuật luyện định tâm mà tôi rất thích nghiên cứu để học hỏi thêm mỗi khi có dịp. Vốn chẳng mấy ra ngoài dịp nghỉ hay lễ, nhưng đây là một tục lệ văn hóa đẹp mà tôi khá hứng thú, vì thế tôi mặc đồ lam để đến thăm phố các cụ Đồ hiện đại ấy.

Đang đi dạo thăm thú các cụ viết chữ, tôi sà xuống một chiếu mà cụ ông chỉ bán các công cụ vẽ viết chứ không bán chữ, tôi định mua một chiếc cọ cỡ trung mà hôm chuyển nhà không mang theo. Vừa ngồi xuống được hai giây, bỗng một chị đang mua giấy bên cạnh quay sang hỏi tôi:

- Chị có thích chữ Thiền không?

Tôi chưa kịp nghĩ ra chuyện gì nên im lặng một lúc, sau tôi hỏi, lúc này chị vẫn đang lựa giấy chứ không nhìn tôi:

- Chị viết ạ?

- Không, bố em. (Chị vẫn trả lời mà không ngẩng lên nhìn). - Nếu thích thì chị đi theo em.

Tôi im lặng không biết nên nói gì. Mua giấy xong, chị thong thả bước đi, rồi quay lại nhìn tôi, vô thức tôi cũng đứng dậy bước theo chị.

Tới một chiếu cụ Đồ, chị bước vào, phụ cha nẹp khung, cắt giấy, trao các tờ thư pháp đã xong thành phẩm cẩn thận cho khách hàng. Thấy chị bận rộn tôi cũng không nói gì, chỉ lặng lẽ chiêm ngưỡng các bức thư pháp cha chị viết treo trên bờ tường, trong số đó có một bức chữ Thiền (tiếng Hán) có hình lá bồ đề rất đẹp. Bỗng chị nhìn tôi, cười nói:

- Chị có thích chữ Thiền đó không? Em sẽ nhờ cha viết tặng chị không lấy tiền. Nhưng chỉ chữ ấy thôi.

Tôi chưa kịp trả lời thì chị đã “bị” những khách hàng xung quanh réo giục, vì cha chị, cụ Đồ chỉ ngồi viết chữ, các công việc khác chị phải giúp cụ. Khi chị nhìn tôi hỏi, bỗng bao nhiêu người xung quanh quay lại nhìn tôi kỳ lạ. Chắc vì mọi người thì phải bỏ tiền ra để mua chữ và yêu cầu, còn phải ngồi thật lâu để chờ tới lượt mình, riêng tôi bỗng dưng được đề nghị tặng. Hay vì lúc đó ai cũng đang xúng xính trong quần áo mùa đông đẹp đẽ, trang điểm lộng lẫy để du xuân, chỉ riêng tôi là mặc chiếc quần lam cũ rộng thùng thình, giày vải và đội một chiếc mũ len đen trùm kín mái tóc trông như một ni cô sống trong tu viện. Hay cũng bởi vì khi vừa cất tiếng, mọi người nhận ra ngay rằng tôi là người miền Nam...

Tôi bắt đầu nhìn chị, và nhận ra đó là một phụ nữ vô cùng xinh xắn. Chị có thân hình và gương mặt tròn đầy và sáng rực trông rất nhân hậu, có lẽ chỉ hơn tôi vài ba tuổi. Trong lúc làm việc chị liên tục nở nụ cười rất hòa nhã với mọi người.

Phải một lúc lâu sau, chị mới ngơi tay, nhìn tôi cười, nói tiếp:

- Chị thích không?

Tôi chậm rãi:

- Chị tặng em chữ gì ấy nhỉ?

Chị cười:

- Chữ Thiền, hoặc chữ Phật, tùy chị, thích chữ nào em tặng chị chữ ấy.

Tôi cũng cười:

- Vậy… chữ Phật.

Chị cười, và tìm cho tôi tờ giấy khổ A3 có hình một cành lá bồ đề còn non rất đẹp. Rồi chị nhờ cụ viết cho tôi chữ Phật, đóng dấu đỏ không phải bằng triện riêng của cụ, mà là một con dấu mang hình bánh xe chuyển pháp luân.

Vẫn cùng với nụ cười xinh xắn, chị trao nó cho tôi bằng cả hai tay, cúi người:

- Em tặng chị, chúc thân tâm an lạc.

Tôi cũng đón nhận bằng hai tay. Và vì còn đôi chút bất ngờ nên không kịp tìm từ gì để nói.

- Em cũng chúc chị như thế.

Tôi đã nhận tờ thư pháp rồi, mà chúng tôi còn cười nhìn nhau một lúc. Ai cũng nhìn chúng tôi. Trước khi đi, tôi cảm ơn chị, và cụ Đồ cha chị đã cho chữ. Nhìn chị lần cuối, tôi nói:

- Phật ở trong tâm nhé.

2. Câu chuyện này mới đi qua chưa lâu. Tôi không phải viết lại vì nghĩ nó đơn giản chỉ là một kỷ niệm, mà hơn thế, tôi nghĩ rằng, dường như đằng sau sự tình cờ đầy trong trẻo ấy là cả một sự nhắn nhủ thầm kín sâu xa nào đó. Liệu sau này có ai đó hỏi chị rằng, vì sao cô lại tặng chữ Phật cho cô gái ấy không?

Khi tôi kể lại câu chuyện này cho vài người. Người thì bảo rằng, có lẽ kiếp nào đó hai chúng tôi từng là những bạn đạo tâm giao; người khác cho rằng, trông tôi có điều gì đó lạ thường khiến người ta muốn khởi sự biếu tặng. Cũng có người nghĩ rằng cô gái ấy là nhân duyên được cõi khác gửi đến để mang tới cho tôi một thông điệp nào đó, một lời động viên trong việc tu học, hoặc một sự nhắc nhở nghiêm khắc chẳng hạn…

Tôi không rõ đâu mới đúng, mà cũng không muốn bỏ nhiều thì giờ để phán đoán. Chỉ đơn giản rằng, chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó, và điều đó khiến chúng tôi vững tin hơn trên con đường mà mình đã chọn, khi biết bên cạnh mình vẫn còn nhiều chúng sanh cũng khao khát tu học, hướng đến giác ngộ Phật tánh uyên nguyên trong mỗi chúng ta.

Drolma Từ Ngọc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2228)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2669)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2712)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2998)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2593)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4100)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3310)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2390)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2691)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2746)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2906)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2717)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant