Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bước qua chênh vênh

15 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 14210)
Bước qua chênh vênh

Chênh vênh là trạng thái mà ta cảm thấy bất an, không vững vàng, dễ té nhào hoặc xiu đổ. Nếu chẳng may khi ấy, ta gặp phải một cơn gió lốc nữa thì có khi sẽ ngã rẹp xuống, không thể gắng gượng lại được nữa; hoặc nếu có gắng gượng thì cũng mất một thời gian khá dài…

Vì sao ta chênh vênh?

Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng có lúc trải qua trạng huống chênh vênh, thấy mình không vững chãi trước mọi thứ. Đó là điều đương nhiên bởi ai chẳng có lúc yếu lòng, có lúc thiếu sáng suốt nếu không muốn nói tới phần đông người thường yếu đuốimờ mịt trong suy nghĩ nên không thấy được vấn đề, đôi khi rất đỗi bình thường nhưng lại làm quá lên, tự tạo những nỗi khổ đau, mệt mỏi cho mình.

buocquachenhvenh-01

Có những lúc chông chênh... - Ảnh minh họa tinternet

Thực tế là, có những sự việc thực sự kinh hoàng, đáng suy nghĩ và là nguyên nhân chi phối chúng ta rất nhiều. Đó có thể là những bất ổn bên ngoài thuộc về hoàn cảnh sống nói chung hay gọi chi tiết là môi trường chính trị-xã hội-kinh tế tác động tới thân-tâm con người. Và, đó cũng có thể là những “bất ổn” bên trong thuộc về tâm-sinh lý của mỗi người như tình cảm, bệnh tật hay những khiếm khuyết nào đó mà mình xem đó là bí mật của riêng mình, là “phần kín” khó giãi bày mà mình cố công gìn giữ…

Ta sinh ra ở một thời đại hay trong một vùng quốc gia, thủy thổ, thiết chế xã hội, chính trị… có nhiều bất ổn làm cho ta cảm thấy thiếu niềm tin hay bị bó hẹp suy nghĩ. Cụ thể, có những người sinh ra giữa một xã hội người áp bức người, ở đó quyền lực thống trị thuộc về số ít và số đông cam chịu làm nô lệ cả về thân xác lẫn tinh thần, giống như một cái máy.

Khi ấy, nếu ta là thực thể có mặt trong điều kiện ấy ta cũng thấy chênh vênh, luôn sống trong sợ hãi vì chẳng biết lúc nào mình sẽ trở thành nạn nhân của trò áp bức. Sống trong thời chiến, nhiều người kể lại những năm tháng nơm nớp ấy chính là những nỗi ám ảnh quá khứ khó lòng nguôi ngoai. Sự chênh vênh về cuộc sống bấp bênh, đầy khó khăn của một giai đoạn kinh tế khủng hoảng cũng làm mình sợ hãi, vì có thể mình sẽ rơi vào hoàn cảnh nghèo khó, thất nghiệp, thiếu thốn đến đói khát…

Suy cho cùng, những điều kiện sống bất ổn, không thỏa mãn mong muốn được tự do, bình an, đầy đủ… của con người chính là nguyên nhân làm cho chất lượng sống (về tinh thần) không cao. Những nỗi sợ hãi, lo lắngbất an này đến từ yếu tố vật chất như sự nghèo túng, thiếu thốn, mất tự do thân thể… được triết học hiện đại gọi là “vật chất quyết định ý thức”.

Bên cạnh đó, còn có những vấn đề tình cảm hay những “nỗi đau tinh thần” thuộc về một người đến từ những khiếm khuyết tâm-sinh lý mà họ luôn xem đó là “nỗi buồn riêng tư”, không thể bày biện, hoặc nếu có nói thì cũng không ai hiểu. Sự “đeo bám” của tâm lý nặng nề từ nhận định về bản thân yếu kém có thể nói theo ta như hình với bóng, và hình như ai cũng bị sự “ám muội” này, bởi không có ai là hoàn hảo một cách tuyệt đối. Sanh ra làm người, có người được đầy đủ sáu căn như cũng có nhiều người sáu căn không đủ đầy. Và họ, đôi khi (hay nhiều khi?) vẫn thấy mất tự tin và đôi khi tự ti, tủi thân vì chính cách đối xử giữa người với người.

Một cụm từ “người bình thường” so với “người không bình thường” (tự hiểu) của những ai khuyết tật đủ để họ đau đáu suy nghĩ về thân phận của mình. Hay, có một thời người ta gọi người khuyết tật là “tàn phế” để rồi sau đó nhiều người khuyết tật đã lên tiếng “chúng tôi tàn nhưng không phế” để minh chứng cho suy nghĩ sáng suốt còn đó thì dẫu đôi tay, đôi chân thiếu vắng hay thậm chí nằm một chỗ thì cũng không phải là “phế nhân”.

Với tư duy đó, không ít người khuyết tật đã phát huy thế mạnh của mình ở những bộ phận còn lành lặn, hoặc sống vui, sống lạc quan, yêu đời để hiến tặng một bài pháp về con đường ở ngay dưới chân mỗi người, quan trọng là ta có chịu đi hay không. Thế nên, thi thoảng gặp được những con người khiếm khuyết một phần thân thể hay trong biểu hiện giới tính có phần chuệch choạc so với hiểu biết về giới của cộng đồng mà họ vẫn sống hữu dũng trước những ánh nhìn kỳ thị, quan ngại và còn góp nhặt yêu thương, cống hiến những giá trị cao đẹp (từ vật chất tới tinh thần) mà những-người-bình-thường khác không làm hay không làm được - báo chí luôn ngợi ca như một điển hình, một tấm gương đáng học hỏi, đáng làm mô phạm cho cuộc đời…

Buồn ơi, chào em!

Có một thi kệ thực tập mà một thiền sư đã đề xuất, được nhiều người yêu mến, trân trọng ghi lại như một cẩm nang trên bước đường vượt thoát khổ đau, kiến tạo an vui, hạnh phúc cho mình, đó là: “Thức dậy miệng mỉm cười/ Hai bốn giờ tinh khôi/ Xin nguyện sống trọn vẹn/ Mắt thương nhìn cuộc đời”.

Sự thực tập này mang tính dừng lại, quán sâu để từ đó gội rửa tâm hồn mình từ chỗ mịt mù tăm tối, từ chỗ nhìn đâu cũng thấy đen thui, đáng chán thành chỗ có một con đường để đi, chỉ cần mình biết thương yêu, biết trân quý bản thân cũng như những gì đang có. Hành động mỉm cười mỗi sớm mai thức dậy là một sự thực tập mang tên chế tác an vui.

Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình và cũng là hành động nhận diện sự thật “thân người khó được mà ta đang được thân người đây, đó là hạnh phúc đâu dễ dầu gì có được”. Nên, hãy hạnh phúc đi!

buocquachenhvenh-02

Hạnh phúc ở trong ta, quanh ta, hãy nhận diện và chạm tay vào - Ảnh minh họa từ internet

Đó, còn là, trong cõi người này, còn bao người nghèo cùng, túng bấn gấp nhiều lần ta; hay còn bao nhiêu người đang phải vật lộn với mưu sinh, chiến đấu với bệnh tật nan y trong cuộc chiến sinh tồn… Ta cứ nghĩ dài và nghĩ rộng ra, bao quát cả một xã hội mà ta đang sống đến toàn thế giới rồi đến những cõi khác, nhất là ba cõi trong tam đồ ác đạo (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh). Những cõi mù mù tăm tăm ấy, nhất là địa ngục, sống chết muôn lần, đau khổ liên miên không dứt kia đáng thương và đáng tội nghiệp hơn ta bội phần, ta khổ chừng này có đáng gì đâu?

Cứ thế mà quán để mà “thương nhìn cuộc đời”, để mà biết ơn giấy phút ta sống dậy sau một thời gian thùy miên để cảm nhận hạnh phúc mà mình đang có. Đó cũng là một cách để giã từ những tri giác sai lầm rằng ta đang bất hạnh, ta đang khổ đau và tiếp tục đẩy mình đi sâu, đi xa vào mê lộ của u tối, khổ đau triền miên, dẫu mình chẳng phải là người khổ nhất.

Buồn ơi, chào em! Đây cũng là một sự thực tập, một thiền ngữ để nhắc ta nhẹ nhàng đối mặt với những buồn thương chất ngất đang phủ trùm trong tâm trí ta. Thiền ngữ nhắc ta nhận diện mình đang buồn, đang chênh vênh có nghĩa là nhắc về sự có mặt của tâm hành ấy trong ta. Nếu ta nhận diệnbình tĩnh chào nó bằng một ái ngữ dễ thương (chào em) sẽ ngăn ta căng cứng lên, chống đối hoặc loại bỏ nó như cái cách mà y học hiện đại thường dùng là phẫu thuật cắt bỏ.

“Phẫu thuật” những nỗi buồn đau, chênh vênh trong tâm thức khác với cách cắt bỏ của y học hiện đại. Theo đó, ta phải thực tập chậm rãi, bình tĩnh, tự tin bằng sự quán niệm về nó. Nhưng muốn nhìn thấu triệt nó để cắt gọt tận gốc rễ thì ta phải chầm chậm lại, dừng lại thì mới có đủ năng lượng để mà quán chiếu. Khi ta cứ chạy điên cuồng và tâm ta lúc nào cũng muốn mình không khổ đau, phải hạnh phúc liền liền dù trước đó và thậm chí hiện tại mình đã tạo ra khổ đau ngút ngàn cho đời, cho người, cho mình bằng những ý nghĩ sai trái, lời nói đầy độc tố, hành động thiếu từ bi… thì ta càng mong muốn (càng tham) thì càng đớn đau, vật vã mà thôi.

Vì vậyĐức Phật chọn một trong những pháp môn căn bản để dạy môn đệ của mình dứt trừ khổ đau, kiến tạo hạnh phúc chính là thiền định. Nhưng, muốn thiền định thì trước tiên và trên hết là phải gìn giữ những nguyên tắc đạo đức (giới luật) thì mới giúp cho thân tâm định và khi ấy trí mới sáng ra để thấy đường đi, đi vững chãi, không còn chênh vênh. Trong Phật giáo gọi đó là “tam vô lậu học” (Giới-Định-Tuệ), con đường đi từ tối ra sáng, giải thoát khổ đau, cập bến bờ an vui mà bất kỳ hành giả nào cũng phải thực tập thì mới nếm được pháp vị của nó.

Thế gian hay nhắc những người nôn nóng, sầu khổ, vụt chạc trong cuộc sống, ứng xử với mình, với người bằng câu: “Cứ từ từ, chuyện đâu còn có đó”. Đối với người con Phật, nhìn sâu vào câu này cũng thấy đó là một công án thiền phải chiêm nghiệm để thực tập.

Cứ từ từ là thiền chỉ (dừng lại), chuyện đâu còn có đó (nhìn sâu - thiền quán, để thấy là sự sự vật vật, hiện tượng biểu hiện trong mình, quanh mình vốn theo định luật nhân-duyên-quả, cái gì đến lúc tới thì nó phải tới, ta có sợ bỏ chạy thì nó vẫn theo ta liền tức thì, vì đó là nghiệp, theo ta như hình với bóng thì chạy đâu cho thoát). Cái quan trọng vẫn là cách ta đón nhận những điều đã và sẽ xảy ra bằng sự hiểu biết, thương yêu. Hiểu rằng nhân quả công bằng, rất rõ ràng, ta đang khổ đau hay hạnh phúc, bình an đều là kết quả mà ta đã gây. Ta khiếm khuyết hay lành lặn, môi trường ta sống bình an hay nhiều độc tố… đều là kết quả mà ta từng tác tạo nhân trước đó…

Bên cạnh nhận diện sự thật ấy để đón nhận bằng tâm từ ái (buồn ơi, chào em) ta còn bắt đầu gieo tạo những hạt giống lành, trùng tu lại những nham nhở, khiếm khuyết trong ta, quanh ta, từng chút một và kiến thiết một cảnh giới an lành từ chính cách ta nghĩ, từ miệng ta nói, thân ta làm (tam nghiệp). Nói gọn là đoạn ác, làm lành, trong đó cái ác đầu tiên phải đoạn chính ta thôi trách móc, thôi những giằng xé đớn đau mà ta đã từng làm, từng cảm nhận bằng sự chênh vênh của mình từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm nọ, kiếp này qua kiếp khác trước đó.

Ờ, đoạn ác, là đoạn những suy nghĩ ấu trĩ, lời nói bạo động, gieo rắc đau thương, phiền muộn, và tuyệt đối không làm những điều tổn hại mình, tổn hại người ở hiện tại cùng tương lai muôn kiếp… Nguyện vậy, tin vậy, hành vậy thì ta sẽ nhẹ nhàng bước qua những chênh vênh, nông nỗi. Nhanh thôi!

Chúc Thiệu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2769)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2541)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3268)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2332)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2423)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2477)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2556)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2224)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2590)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3061)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2657)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2575)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2618)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4120)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3081)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3324)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2527)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2813)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2880)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2627)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2640)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3196)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2599)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2608)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2699)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3280)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2568)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2136)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2926)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2959)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant