Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cô thân vạn lý du...

11 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 15807)
Cô thân vạn lý du...
CÔ THÂN VẠN LÝ DU...
Tâm Dũng

cothanvanly-01Tâm Tình Dẫn nhập

Cuộc đời ngày càng phức tạp, học Phật cũng như thế.

Người học Phật ngày nay, trong thời buổi kinh tế thị trường, trăm hoa đua nở, tài liệu, kinh điển Phật Pháp, phương tiện thông tin đầy đủ và hữu hiệu, nên việc tìm hiểu, thực hành giáo Pháp, nếu muốn, thì sẽ quá dễ dàng. Nhưng mà, cuộc đời trớ trêu thay, đất màu mỡ thì nhiều cỏ, lắm hoa thì nhiều sâu, thế nên,cũng chính vì sự phong phú đó, mà pháp Phật ngày nay, người học không khéo, không cẩn thận sẽ dễ dàng lạc hướng trong rừng ngôn ngữ, đa dạng và phức tạp, trừu tượngmơ hồ, nhằm diễn tả thực tại mà lại xa rời thực tại và càng ngày càng ô nhiễm.

Bài viết này chỉ là những dòng “tâm sự”, tâm sự nhưng không than van, mà “nhẹ nhàng” như tiếng chuông chiều mà thỉnh thoảng ta nghe được văng vẳng đâu đó trên bước đường học Đạo, để nhắc nhở cho chính mình và chia sẻ với những người bạn chưa quen, nhưng có cùng chung một “tâm tình”, và nhất là, để thấy rằng, mình, chúng mình, sẽ không quá “cô đơn” như mình tưởng.

cothanvanly-02Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du ...”

Hai câu đó mở đầu cho cuộc đời khất sĩ, từ đó, cuộc sống bình thường, thay đổi, mở ra một ngả rẽ có chọn lựa và quyết định. Ta thử nhớ lại cảnh tượng người trai trẻ Tất Đạt Đa, một đêm, đã nhẹ nhàng, vén màn, nhìn vợ, hôn con, lần cuối, rồi lặng lẽ ra đi, một mình, trơ trọi, hành trang vỏn vẹn chỉ có “khối nghi tình” thôi thúc mạnh mẽ, để từ đó băng mình trên con đường... “cô thân vạn lý du” để tìm cầu giải đáp.

Cuộc ra đi dấn thân nào cũng nhiều đắn đo trăn trở, và “hào hùng” nước mắt, ngày xưa cũng như ngày nay, cùng là sự ra đi, nhưng mức độ giá trị sẽ tùy thuộc ở sự chọn lựa, tự nguyện hay do hoàn cảnh bức bách, vì chính điều đó sẽ là nhân tố quyết định cho thành quả sau này.

Người tu học Phật mình nên suy nghĩ nhiều về nguyên nhân “ra đi” cũa người trai trẻ đó, hãy suy nghĩ thật nhiều và hãy “hành thâm” về điều đó, nó sẽ giúp cho mình rất nhiều trên con đường... “vạn lý du” của mình. Hãy chính mình suy tư về điều đó, chính mình, không dựa vào bất cứ ai khác, không căn cứ trên những mẩu chuyện thần thoại truyền thuyết nào cả, vì nó, phần lớn, đã thần thánh hóa và tô điểm màu mè làm nhòe đi hình ảnh “ra đi” bi tráng đó, và như thế sẽ làm cho mình mù mờ không hiểu được đâu là sự thật, đâu là nguyên do chính yếu, mạnh mẽ đến độ có thể thúc đẩy một hoàng tử buông bỏ tất cả để dấn thân vào con đường tầm đạo gian khổ.

cothanvanly-03Lên non tìm hạt Bồ Đề

Ngày nay, cũng có rất nhiều người, có già có trẻ, nam hay nữ, một mình hay hai mình, cùng “rủ nhau” đi theo bước chân tầm đạo của người xưa, sự “ra đi” tuy không “âm thầm” và “bi tráng” như thế, nhưng, dù sao cũng dáng dấp đáng “yêu” và đáng... nghiêng mình kính phục. Những người ngày nay, như Thiện Bửu, Ngọc Hiền, Chơn Minh, Tâm Khiết; những John Doe, Jane Roe; những Jean Pierre, những Joe, Jannete,... họ ở cùng khắp, đã lần lượt... bỏ trường bỏ sở bỏ người yêu mà “ra đi”, họ tìm đến những nơi xa xôi, mà địa danh nay trở thành quen thuộc: Dharamshala, Wat Pah Nanachat, Tassajara, Ukiah, Village des pruniers, North Folk, Bonsal, Escondido; Dalat, Long Thành, Suối Tiên, Yên Tử, Tây Thiên... Các “thiện tài đồng tử” ngày này, dò dẫm, tìm tòi để được đến tận nơi, gặp gỡ và học hỏi với những vị Thầy, vị Sư, với những Roshi, Rinpoche, Swami, những Ajahn, Bhante, Sayadaw... Họ không phải là những người hành hương bình thường theo chân một vài vị Thầy đi đây đi đó, thăm viếng những di tích hoang tàn còn sót lại, những người này, đi đến và ở lại, và nếu may mắn (... cũng có thể là không may mắn), họ sẽ được thay tên đổi họ, sẽ có những danh xưng rất “ngoại”, mà khi tiếp xúc, người ta sẽ không biết... ai là ai, họ là người nước nào, nam hay nữ, chẳng hạn như có người với cái pháp hiệu rất là Ấn Độ mà khi biết ra thì lại là chàng Gary cao bồi Texas! hay khi nghe cái tên của một người rất là Việt và Nam, mà thực ra lại là dân “phớt tỉnh ăng lê” và rất là nữ! đại khái là như thế. Về hình tướng thì chiếc áo màu lam cư sỉ ngày nào nay sẽ đổi thành các áo choàng màu nâu, màu vàng, màu đen Nhật Bản, hay màu huyết dụ Tây Tạng... tùy theo trường phái tu tập, mà sau những tháng ngày “thử thách”, họ đã tìm được nơi an ổn, tạm thời hay dài hạn, với niềm hy vọng nơi đó sẽ có thể đáp ứng được những thao thức tìm cầu của mình. Nhưng phần lớn, thì không được “may mắn” như vậy, và sau những đêm dài “trăn trở”, họ lại phải “từ giã và ra đi”, nhiều lần và nhiều lần như thế nữa,... nhưng chắc chắn là không hơn con số 55 lần của Thiện Tài Đồng Tử ngày xưa!

Sự hăm hở ban đầu, nguyên nhân thúc đẩy “ra đi” đó, dù cao quý hay bình thường thì cũng là điều đáng ca ngợi và khuyến khích. Nhưng không phải ai cũng có thể thẳng tiến “phăng phăng” trên đường đạo, hoàn cảnh, nơi chốn, bạn bè “đồng tu”, những khó khăn về “kỹ thuật”, phương pháp tu tập, cách thức hành đạo, và... mục tiêu “phật sự”... sẽ là những nhân tố đưa đến cho sự “từ giã và ra đi” đó. Nhưng điều này cũng nên “an ủi” (!) vì đó là một “diễn biến bình thường” mà chính Đức Phật cũng đã trải qua. Thời nào cũng thế và lúc nào cũng vậy.

Thử nhìn lại cái “vòng luân hồi” của... ra đi, ở lại, từ giã rồi lại ra đi, thì người ta thấy rằng, thực ra, rất khó mà biết được ai là người “may mắn” và ai là người “kém may mắn”. Câu chuyện khúc gỗ và dòng sông trong kinh Phật cho biết: khúc gỗ mà không bị người vớt, không tấp bờ bên này bên kia, không mục nát... thì nó sẽ “trôi thẳng băng” ra đại dương. Nhưng “tình thế” sẽ không đơn giản như vậy, trong thực tế, người ta cũng có thể hiểu được rằng, sự “ở lại” có thể là “tấp bờ”, dù là bờ bên này (chánh) hay bờ bên kia (tà), khi đó, khúc gỗ đó có khi sẽ trở thành hữu ích, nhưng cũng có thể nó sẽ mục nát vì sâu bọ, tiền tài, danh lợi, sự nghiệp, chức vị... Nhưng mà, than ôi, người từ giã “vứt áo ra đi” thì cơ hội cũng không hay ho gì, họ rất dễ dàng bị “vớt gọn”! Thấy thế, người “đồng tu” mình, cách tốt nhất sẽ là “nín thinh”, lặng mình trong “im lặng sấm sét”! Vì rằng những cái lắc đầu chán nản hay chê bai, kinh rẻ đều là quá đáng.

cothanvanly-04Mở ra tam tạng kinh

Ta ngồi đọc một mình

Trăng sao soi từng chử

Giữa đất trời lặng thinh.” (1)

Từ ngữ “một mình” có nhiều nghĩa, về mặt hình tướng thì là một thân một mình, cô thân độc mã, trơ trọi, là lang thang, “homeless”, thân “vô sở trụ”...; nhưng thực ra “tình thế” cũng không đến đỗi “cô đơn” và “tệ” như vậy, dù sao, một mình nhưng chung quanh cũng còn có... trăng sao và trời đất, và nhất là tự do! Nhưng, “một mình” ở đây, quan trọng hơn, nó có ý nghĩa nặng về mặt tâm lý, đó là sự buông bỏ, một trạng thái không còn bám víu vào một thứ gì khác.

Trong kinh có nói: buông! buông! buông cho đến không còn gì để buông, buông cho đến không còn cả... “người buông” và “cái để buông”, thì khi đó là “xả” là “không”, là “vô nhất vật”, là ...“không là gì ráo”! “Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...” (2), là người trong tâm sẽ không còn vương víu những bóng dáng thấm thoát của một thời quá khứ “hào hùng” ngày nào, và giờ đây, trong lòng cũng không còn “ôm ấp” những “mộng tưởng Niết Bàn”, những “lý tưởng cao đẹp” nào để theo đuổi, mong cầu đạt đến trong tương lai.

Trong Majjhima Nikaya, khi có người thỉnh cầu Đức Phật tóm tắt toàn bộ giáo pháp của Ngài ngắn gọn trong một câu, thì Ngài nói: "Sabbe dhamma nalam abhinivesaya -Nothing whatsoever should be clung to - không bám víu vào bất cứ điều gì”. Và Ngài còn nhấn mạnh rằng, bất cứ ai, hễ nghe được câu nói đó sẽ là người đã nghe được toàn bộ giáo pháp; bất cứ ai hễ đem câu nói đó ra thực hành thì là đã thực hành toàn bộ giáp pháp; và bất cứ ai, hễ có được thành quả do thực hành câu nói đó, thì là đã đạt được thành quả của toàn bộ Phật pháp. (3)

“Trụ”, an định trong một trạng thái, dù an lạc thực sự hay ảo tưởng, cũng có thể là “vùng nước đọng”; tôn sùng, “thần thánh hóa” một vị Thầy, dù đã giác ngộ hay nghĩ là giác ngộ, sẽ là một bám víu; cố chấp vào một pháp môn đã là sự vướng mắc; tinh tấn hành trì một phương pháp tu tập, ngày qua ngày cũng dễ trở thành máy móc và đưa đến nhàm chán... và với “ý chí cố gắng khắc phục” vượt thắng nhàm chán đó, thì kết quả lại làm cho tâm tánh dễ dàng trở nên không còn linh hoạt nhạy cảm, thờ ơ lãnh đạm trước hạnh phúc khổ đau của người khác, nhưng quan trọng hơn hết, nó sẽ làm lớn mạnh thêm bản ngã, vì sẽ rất hãnh diện rằng, “TA” đã thắng được “ta”! Điều này thật là “nguy hiểm! Phương cách hành trì tu tập nhằm “đối trị”, “diệt trừ”, đã “phân ranh” năng và sở, là “đối đãi” là không phải “pháp môn bất nhị”, và đối với người trong cuộc, nó là một trường chiến đấu gian khổ, mà kết quả sẽ là, dù thành công hay thất bại, thì... “ta vẫn là ta của thuở nào”, con đường vạn lý cứ thế quanh quẩn quẩn quanh!

Thế mới hay, sự “ra đi” đã khó, nhưng buông bỏ còn khó hơn nhiều, vì ra đi, dù sao cũng còn có chỗ để quay về, “con đường sạn đạo” năm xưa còn chưa đứt, dù rằng sự trở về đó có đôi chút ngậm ngùi như người chiến binh thất bại, và có thơ rằng: “Ta về một bóng trên đường lớn, thơ chẳng ai đề vạt áo phai...” (4), trong khi đó, buông ra là mất, mất tiêu! Không còn manh giáp, không bao giờ còn dịp lấy lại, nên rõ ràngsợ hãi. Người tu mà “quẳng kinh cởi áo cà sa”, thì có nước là... “hóa làm ngọn gió thổi qua ba đào” (5). Buông bỏ khiến mình chơi vơi không còn chỗ bám víu, buông bỏ một hình tướng, một sở hữu, tiền tài, danh lợi, sự nghiệp, buông bỏ một quan điểm, một cơ sở lý luận, một thói quen ngàn đời... là điều mà ai cũng phải hãi hùng. Trong khi đó bám víu thì an ổn, sự nương tựa nào cũng cho ta một cảm giác ấm áp và an lòng, sự “kiên trì tinh tấn” với ý chí cố chấp không hề lay chuyển khiến lòng cảm thấy chắn chắc, vững vàng... và như thế cứ tưởng là mình đang đi... đúng pháp, nhưng mà than ôi, nào hay...!

Ôi, trớ trêu thay cuộc đời, “có” không được mà “không” lại càng không được, cái “không được gì” là cái “có được” của người tu. Nhưng có người lại hỏi, làm sao mà “có được” cái “không được gì” đó? thì ra cũng ... lại càng “không có được” cái gì cả! Có như thế mới là “khổ đế” chứ!

Cẩn trọng

Tâm Dũng

 

Chú thích:

1. “Tụng Kinh”, Thơ Huyền Không, Thích Mãn Giác.

2. http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-nguoi-biet-song-mot-minh

3. 'Heart-wood from the Bo Tree' by Buddhadasa, page 8-9.

4. “Ta Về”, Thơ Tô Thùy Yên.

5. Xin lỗi, không nhớ là thơ của Thầy nào.


Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2758)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2233)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2365)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2675)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2323)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2547)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2552)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2721)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3006)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2572)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2610)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4109)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2779)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3321)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2520)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3007)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2874)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2614)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3192)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2274)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2486)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2604)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3272)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2561)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2824)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2918)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2947)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2724)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant