Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quảy Gánh Ra Đi

15 Tháng Ba 201300:00(Xem: 14617)
Quảy Gánh Ra Đi

Quảy Gánh Ra Đi

 

Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... đếm từng bước trên con đường mòn của miền thôn dã. Đầu đội chiếc nón lá. Thân mặc áo khoát. Chân mang đôi dép mòn, trông như một bộ hành trên con đường thiên lý không quán trọ để nghỉ chân. Thầy đi. Quảy gánh ra đi. Đi như một định mệnh. Một sứ mệnh. Một sự vận hành của quê hương, dân tộc. Hay đi là một khốn cùng của tâm thức bị vây hãm bởi bóng người. Bóng đêm của phố thị. Quảy gánh ra đi để thấy từng viên đá cụi nằm bên lề đường, chịu nắng mưa năm tháng. Để thấy hoa đồng cỏ nội chen chúc với đám lau xanh. Để thấy mây trời bay trên đầu và bụi đường hoăn đôi chân. Ra đi mới thấy núi cao, hùng vĩ. Mới thấy rừng xanh, cây xanh. Lá xanh. Thầy quảy gánh ra đi như một vượt thoát của dòng tư duy lâu đời bị kìm hãm. Ra đi như một sự nổ tung của ý thức trước bóng đêm tăm tối. Ra đi để hòa quyện với hương rừng, sương đêm, nắng sớm. Sự vùng dậy của ý thức như tiếng hú vọng về từ sườn non, vách đá, như tiếng gọi của núi rừng, một phương trời mộng còn cách xa.

docduonggiobui

Dọc đường gió bụi

Sáng nay, sương mù phủ kín miền cao nguyên. Những ngọn lá xanh cúi đầu thầm lặng. Trời không gió. Chẳng nắng vàng. Sương đêm còn đầy đặc. Ngồi ngủ trước cổng chùa, Thầy vỗ đầu sư tử xin được tá túc qua đêm. Quấn mình trong chiếc y, co ro dưới bụng sư tử đá, như một gã ăn mày lang bạc, đầu đường, xó chợ đâu không phải là nhà - vô trụ xứ Niết bàn, hay tùy sở trụ xứ thường an lạc của một tâm hồn an nhiên, tự tại. Tùy duyên hóa độ, Bồ tát hóa thân dưới mọi hình tướng. Ngài Hàn San, Thập Đắc lưỡng đầu đà thường ăn cơm thừa, canh cặn của Tăng chúng, tối lại kéo nhau xuống nhà bếp ngủ, sáng thức dậy lang thang ngoài đường. Áo quần rách bương, lem luốc. Người đời nhìn đâu có ai biết là hai vị Bồ tát hóa thân. Cõi đời ác năm trược này được gọi là Ngũ thú tạp cư địa hay còn gọi là phàm thánh đồng cư độ. Người phàm, bậc thánh sống chung với nhau. Đâu ai phân biệt được Thánh phàm khi chưa chứng đắc lục thông - Thiên nhãn thông, để nhìn thấy và biết, đây là bậc quân vương nhưng còn quá nhiều tham, sân, dục vọng và đây là người cùng tử xin ăn, nhưng đã giảm thiểu quá nhiều đa tâm, tạp tưởng. Kẻ cùng tử ấy trở về ngôi nhà xưa để tiếp nhận gia tài. Đâu là phàm. Đâu là Thánh. Nhận diện tướng mạo, chân dung? Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật. Văn học Thiền đã dạy như thế. Vô niệm. Vô ngôn. Vô sở trụ. Vô phân biệt.

Hành trạng của Thầy hóa thân vào đời là vậy đó. Như Thầy đã nói trong lời "Gate Gate": "Tôi đi lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc núi, đây cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì có cơ hội ngội, đời này hoặc đời sau. Thị Ngạn Am vô trụ xứ, tàn thu, Tân Mão, 2555. 10/21/2011. Tuệ Sỹ."

"Tôi đi" mà không phải anh đi, người ta đi hay ai đó đi. Lời nói này đã khẳng định chủ từ "Tôi". Tôi là biệt lập với anh, với em, với tất cả hình thù, dáng dấp mọi sự vật. Hữu tình. Vô tình. Động vật. Thực vật. Khoáng vật. Nhưng nếu bức "Tôi" ra, biệt lập với tất cả thì "Tôi" ấy cũng chẳng thành cái gì hết. Vì tương duyên, tương sinh. Do cái này có, nên cái kia có. Do cái này sanh, nên cái kia sanh. Do cái này diệt, nên cái kia diệt. Một chuỗi duyên sinh trùng trùng vô tận. Vậy "Tôi" của Thầy là "Tôi" trong vô lượng cái "Tôi". "Tôi" trong giáo pháp duyên khởi. "Tôi đi" có nghĩa là, "Tôi" duyên khởi đi. Duyên sinh đi. "Tôi" là triết lý sống của vũ trụ vạn hữu. "Tôi" là sự tự tồn của sự sự vật vật - nhân sinhvũ trụ.

"Tôi" là tất cả, thì Thầy là tất cả. Tất cả là "Thầy". Sự liên hệ duyên sinh mật thiết nên vận mạng của quê hương, sử mệnh của quê hương, sự hao mòn của tuổi trẻ, sự đọa đày của dân tộc, chính là của chung tất cả, trong đó có Thầy. Nên "Tôi đi chấn chỉnh sơn hà. Hồng rơi vánh đá mù sa thị thành" là vậy. (Tỉnh Thất. 2000-2001). Một khi đã khẳng định "Tôi đi" có nghĩa là những người khác không đi. Những người khác ở lại. Ở lại với "Tôi" của họ. Biết vậy, chúng ta thử coi cái "Tôi đi" của Thầy như thế nào. "Lang thang", "đi lang thang" có nghĩa là không điểm tới. Không điểm khởi đầu. Không điểm chung cục. Đi như gió thổi bụi bay. Đi như gió cuốn hoa bay. Đi như gió đẩy mây bay. Đi tự nhiên. Đi mà tâm không cầu. Tâm không mong. Tâm không vướng bận. Tâm không ràng buộc bởi bất cứ cái gì. Đi bằng an nhiên tự tại. Hình dung hai chữ "lang thang" như kẻ không nhà. Vô trụ xứ. "Lang thang theo đám mây trôi" có nghĩa là "đám mây trôi" về đâu thì Thầy lang thang "theo đám mây trôi" đó. Mây trôi về phương Nam thì Thầy theo về phương Nam. Phương Tây. Phương Đông... lòng nhẹ như mây, bềnh bồng giữa hư không. Nói đến đám mây là nói đến sự không ràng buộc. Sự tùy thuận. Sự dễ hợp mà cũng mau tan, biến thái nhiều về hình tướng. Tùy duyên mà thành. Cũng tùy duyên mà tan. Hợp tan là lẽ thường tình.

Qua ý thứ hai của sự ra đi là "phương trời vô định". Không nhất định một phương trời nào. Tùy duyên thì đến mà cũng tùy duyên để đi. Thật là ngoạn mục cho một tâm tư phiêu bồng, nhẹ như mây và vô định phương trời. Chúng ta đọc lại Ngục Trung Mị Ngữ sẽ thấy lại những tư tưởng này. Bài Trách lung:

"Trách lung do tự tại

Tản bộ nhược nhàn du

Tiếu thoại độc cảnh hưởng

Không tiêu vĩnh nhật sầu."

Dịch: Lồng chật:

"Lồng chật vẫn tự tại

Qua lại như nhàn du

Nói cười chơi với bóng

Tiêu sái tù thiên thu"

Khi xưa còn ở tù, mà vẫn tự tại, nhàn du, nói cười chơi với bóng. Nếu không có một chất liệu sống an nhiên, tự tại, vượt thoát tất cả mọi sự ràng buộc, kể cả cái chết, thì khó có được tâm hồn siêu thoát như vậy. Siêu thoát như "đám mây trôi", "phương trời vô định". Một tâm hồn lớn của bậc xuất trần. Trong bài Tự vấn:

"Vấn dư hà cố tọa lao lung

Dư chỉ khinh yên bán ngọc khung

Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng

Cố giao già tỏa diện hư ngung."

Dịch: Hỏi mình

"Hỏi mình sao phải lao tù?

Song thưa cửa ngục có tù được mây?

Kiên trì cuộc lữ vàng bay

Lời xưa còn đó phút giây không sờn."

Song cửa tù không thể nhốt được mây. Cánh cửa nhà tù không thể nhốt được tâm tư của Thầy. Vì tâm tư của Thầy nhẹ nhàng như mây. Vô trụ như mây, bềnh bồng như mây. Thơ mộng như mây. Cửa tù làm sao nhốt được tâm tư ấy. Mặc dù thân ở trong tù nhưng tâm thì ngao du sơn thủy, nay thì đỉnh núi nọ, mai thì gềnh biển kia. Thân bị nhốt trong tù mà tâm thì an nhàn, tịnh lạc như ở các cõi Thiền. Trong Ngục Trung Mị Ngữ, bài thơ Biệt Cấm Phòng:

"Ngã cư không xứ nhất trùng thiên

Ngã giới hư vô chân cá thiền

Vô vật vô nhơn vô thậm sự

Tọa quan thiên nữ tán hoa miên."

Dịch: Tù xà lim

"Ta ở tầng trời Không vô Biên

Nơi ấy tịnh nhiên Thiền thật Thiền

Không vật không người không đa sự

Nhìn xem hoa vũ bởi tiên thiên."

Tất cả những ý trên là chân thân hằng hữu. Tâm thức tuyệt cùng của lý tánh nhất như. Vô trụ. Bất thủ như "đám mây trôi". Như "phương trời vô định". Một tâm hồn lớn. Tâm hồn của Bậc Đại Sĩ.

trovesau_3_tuankhatthuc

Trở về sau 3 tuần khất thực


Đọc tiếp "Gate Gate" để thấy những hình ảnh, những ảnh tượng, những sắc thái. Hình thù đơn điệu, cô liêu trên mặt đất. Hình ảnh ấy như là: "Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây." Vùi thây có nghĩa là khỏa lấp, chôn cất cái thân đã chết. Cái thân không còn cử động. Không đi. Không đứng. Không nằm. Không ngồi. Không biết thương yêu, thù tạc. Cái thân do tứ đại hợp thành bất động. Cái thân do ngũ uẩn hợp thành bất động. Thân chết. Thân vô tri. Vô giác. Nhưng tại sao Thầy lại nói "Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây?" Làm người đọc phải suy tư dữ lắm mới có thể hiểu đôi chút ý nghĩa của lời nói này. Tại sao khi chết - Thầy chưa chết, không ở một chỗ đàng hoàng, có vòng hoa phúng viếng, có liễn đối chia buồn, có điếu văn phân ưu, có lời Kinh siêu độ, có quý Thầy môn đồ pháp quyến cầu nguyện siêu sanh Thượng Phẩm, mà phải "vùi thây" nơi "bờ sông, hốc núi"? Thì ra, cái chết là bình đẳng. Dù chết ở đâu. Chết trên long sàng. Chết trong nệm ấm, chăn êm. Chết trên giường bịnh. Chết dưới gốc cây. Tất cả cái chết đều giống nhau. Một ông vua chết giống như một người dân nghèo chết. Một anh hùng chết giống như một tên lính chết. "Thông minh tài trí anh hùng, ngu si dại dột cũng chung một gò". Có khác chi đâu. Nếu có khác chăng, thì khác ở người sống. Nghĩa thứ hai là vô thường. Đang đi có thể chết. Đang ngồi có thể chết, và đang là có thể chết. Từ sự chết ấy nơi bờ sông, nơi hốc núi bằng tâm vô phân biệt của Bồ tát thì đâu cũng là nơi xã bỏ báo thân tịch tịnh, Khi xưa đức Thế Tônbáo thân nơi rừng Sa la Song thọ. Dưới những gốc cây Sa la trái mùa hoa nở. Nhưng khi đức Thế Tôn thâu thần nhập diệt, Niết Bàn vô dư thì hoa rừng nở rộ để cúng dường. Khi đức Thế Tôn quyết định nhập Niết bàn nơi rừng Kusinara - Câu Thi Na, thì bao chư vị Thánh đệ tử, bao nhiêu vua quan, đại thí chủ, thưa thỉnh đức Thế Tôn nên nhập Niết bàn trong thành Vương Xá, Ma Kiệt Đà... là những thành phố lớn có đông dân, giàu có, sang trọng, để cho Lễ trà tỳ, phân chia xá lợi được đông đảo người, chiêm bái, cầu nguyện. Nhưng đức Thế Tôn đã từ chối. Ngài nhập Niết bàn giữa vùng núi rừng thanh vắng. Thầy đã học theo cái hạnh của đức Thế Tôn. "Bờ sông, hốc đá" là nơi thanh vắng. Nơi yên tỉnh, thích hợp cho sự xã bỏ báo thân, dưới cái nhìn của bậc Thượng sĩ. Một ý nghĩa khác mà chúng ta có thể hiểu, Thầy chẳng quan trọng gì cái chết. Nhẹ như lông hồng. Nhẹ như bông. Nhẹ như tuyết. Thân có sinh ra thì thân có chết. Chết là điều tất nhiên. Chết nơi phố thị kiêu sa. Lầu son gát tía. Nơi cung vàng điện ngọc, hay rừng vắng núi sâu. Tất cả đều chết. Với ý nghĩa chết này, Thầy đã bao lần nghĩ tới. Trong bài thơ Trầm Mặc:

"Anh ôm chồng sách cũ

Trầm mặc những đêm dài

Xót xa đời lữ khách

Mệnh yểu thế mà hay"

(Giấc Mơ Trường Sơn)

Trong Giấc Mơ Trường Sơn, Thầy muốn "mệnh yểu thế mà hay" nhưng mệnh vẫn không yểu. Cho đến thời gian ở tù, Ngục Trung Mỵ Ngữ, Thầy lại muốn "mệnh yểu" nữa, qua bài thơ Tác Thi Sự:

"Tự tâm tự cảnh tự thành chương

Tự đối bi hoan diệc tự thường

Tha nhật Nhan Hồi tọa tán ngẫu

Tàm ty cát đoạn tán thương thương."

Dịch: Làm thơ

"Cô độc canh tâm thơ tự xuất

Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức

Nhan Hồi gặp gỡ trong lòng đất

Cắt nhỏ tơ tầm tung không trung"

Mệnh yểu thế mà hay để gặp Nhan Hồi trong lòng đất. Vì Nhan Hồi - chết yểu. Còn Thầy thì đâu có "mệnh yểu" mà "thọ mệnh" để vuốt lông mi làm thơ. Trong bài: Mộng khứ mộng lai:

" Bán niên cấm cố mộng thành ty

Đạp biến giang hồ phóng nhiệm quy

Mộng khứ mộng lai thân ngoại vật

Mộng tàn ngốc tọa bát trường mi."

Dịch: Mộng đến mộng đi

"Nửa năm cấm cố thanh tơ

Đi khắp non sông giảng huyền cơ

Mộng đến mộng đi thân thành mộng

Mộng tàn khẽ vuốt mi làm thơ"

Vuốt mi làm thơ để lại cho đời thưởng thức những đêm đen lộng gió. Những buổi chiều tà hoàng hôn buông phủ. Những bọt sóng nhấp nhô gào thét giữa đại dương. Những đỉnh núi cao. Những gềnh biển sâu. Những tâm tưởng là gỗ mục, nhưng hàm tàng một "nguồn thơ thâm viễn u u..." Do vậy, thi sĩ Bùi Giáng đã đề nghị sau khi đọc bài Khung trời cũ: "Tôi hoảng vía đề nghị: Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn." Vậy, sự sống, sự chết nơi đây được coi như là huyễn, mộng, bào, ảnh của pháp hữu vi, thì sá gì "bờ sông, hốc núi" đâu chẳng là nơi Bồ tátbáo thân. Như Tôn giả A Nan bay lên hư không, ở giữa sông Hằng dùng lửa Tam muội thiêu thân, tro rơi xuống sông Hằng trôi ra đại dương tan biến hòa nhập vào bản thể thiên nhiên, vũ trụcuối cùng của lời "Gate Gate" là câu kết rất có hậu. Rất có tình. Có nghĩa. Có lòng thương tưởng của hạnh nguyện độ sinh. Của tâm Bồ tát cứu khổ độ mê mà không quay lưng bỏ lại mặc ai sống ai chết. "Chút tình mang xuống tuyền đài chưa tan". Tan sao được khi mà hạnh nguyện độ sinh chưa tròn "chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề". Do vậy mà: "Một chút duyên còn ràng buộc thì có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau". "Một chút duyên" ấy nhưng nó mãi miên man đến vô cùng, vô tận. "Cái phút ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm chưa dễ đã ai quên". Hay "Cái tình là cái chi chi, dẫu chi chi cũng chi chi với tình". Ấy là chuyện thế nhân nói nghe vui chơi. Còn cái "duyên" của Bồ tát thương chúng sanh còn nặng nhiều hơn nữa. Còn lâu dài "ràng buộc" nhiều hơn nữa, thì đâu thể gọi là "có chơ hội ngộ" mà là hạnh nguyện độ sinh. Là bổn phận. Là trách nhiệm. "Đời ác năm trược, con xin nguyện vào trước, để độ chúng sinh. Ngày nào còn có một chúng sinh chưa được hóa độ, thì con nguyện không chứng nhập quả vị Nê-hoàn". Lời của Ngài A Nan thưa thỉnh nơi đức Thế Tôn chứng minh. "Một chút duyên" mà tự tánh muôn trùng. Ràng buộc "chút duyên" ấy như mắc lưới đế châu, phạm võng. Chút duyên "sinh vô lượng duyên". "Có cơ hội ngộ" hay vô lượng lần hội ngộ, cho đến cùng tận biên tế thời gianvô cùng của không gian. Do vậy, "có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau" chỉ là ngôn từ để nói. Để phô diễn. Để đùa giởn của cái hữu hạn với cái vô cùng mà thôi. Phương tiện để nói nhưng cứu cánh không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn ở chỗ, Thầy nói:

"Lặng lẽ nằm im dưới đáy mồ

Không trăng không sao mộng vẫn vơ

Tại sao người chết, tình không chết?

Quay mấy vòng đời môi vẫn khô"

Thân xác "nằm im dưới đáy mồ", có nghĩa là con người đã chết. "Tại sao người chết" còn "tình không chết" vì tình ấy là Đại bi tâm. Tình ấy là Từ bi tâm, Bồ đề tâm. Giải thoát tâm... làm sao chết được. Nếu "tình" cũng chết theo "người" thì "tình" ấy là "tình" của thế gian. Của nhơn ngã bỉ thử. "Tình" của sự so đo tính toán. "Tình" sai biệt trong dòng đời sinh diệt. "Tình" hơn thua. "Tình" hận thù. "Tình" cho đi và muốn lấy lại.

Đấy là đôi dòng nói vẩn vơ của hình tướng ngôn ngữ. Còn cái gì muốn nói thì không thể nói. Dù muốn nói về "đám mây trôi", "phương trời vô định", "đời này", "đời sau", hay "một chút duyên có cơ hội ngộ". Tất cả là thế ấy. Từ từ, chậm rãi của sự suy tư!

Giờ này, người viết thắp ba cây hương cắm vào lư hương để trước mặt. Ngồi ngắm làn hương quyện tỏa, lan dần, lan dần rồi tan vào hư không. Ba cây hương đã cháy hết hơn nửa, mà cứ đọc tới đọc lui lời của người tường thuật về chuyến đi của Thầy. Đọc hoài mà nghĩ không ra. Càng đọc càng bí lối. Vỏn vẹn chỉ có bảy, tám hàng chữ viết mà sao thấy nó mênh mông vô tận. Mênh mông ở chỗ người hiện thân vào cát bụi để gần gũi với cát bụi. Và vô tận ở chỗ là một thân mà liên hệ đến vô lượng thân. Sự mênh mông, vô tận của người tường thuật: "Em nói nó bình thường đến mức mình không tưởng tưởng nổi là ý nghĩa như vầy: đúng nghĩa "giang hồ"! Chị tưởng tượng được không, em gặp lại một ông già râu xồm xoàm, mặc áo mưa, đầu đội nón lá, vai gánh cây gậy tre (ông lượm được dọc đường) một đầu là cái giỏ nilon để cái vỏng và mấy thứ linh tinh, đầu kia cái đảy thầy tu đựng y và sách! Nghe ông kể chuyến đi mà rùng mình không hiểu sao ông chịu đựng nổi, cứ như một quyển tiểu thuyết. Ông đi bộ trung bình mỗi ngày 30 km, qua các đoạn đường đèo, đường rừng, tối ngủ đình, miếu cô hồn, có hôm nằm ngủ trên sạp bán bún riêu khi người ta đã bán xong và dọn hàng về. Có đêm ngủ trong chòi kiểm lâm trên rừng, có đêm ngủ bến xe bị bảo vệ ra đuổi, lại xách gói đi tiếp.v.v... Nhưng mừng là ông rất khỏe, da rám nắng nhưng hồng hào, nét mặt tươi rất thanh thản thoải mái, và đặc biệt giọng nói rất mạnh, to, chứng tỏ một nội lực được tích lũy lớn."

Lò hương đã lụn. Khói hương đã tan. Tàn hương đã nguội mà bao hình ảnh cứ lũ lượt kéo về trong tâm tư. Một ông già râu tóc dài. Đầu đội chiếc nón lá rộng vành. Vai quảy gậy trúc. Thân người mảnh khảnh như thân cây sậy - cây sậy có tư tưởng, lang thang trên khắp nẻo đường. Khi thì ngồi nơi góc chợ, để xem người đi qua, lúc thì ngủ nơi miếu cô hồn bên vách núi. Có phải là hóa thân của Bố Đại Hòa Thượng, của Bồ tát Quán Thế Âm, của Đại Tạng Vương Bồ Tát chống tích trượng vào ba đường ácthể hiện lòng từ, thương người, cứu vật, chia sẻ nỗi khổ đau trong đời. Rồi lắm lúc ngồi tựa dưới gốc cây, bên bờ suối mà ngắm mây trôi, trong rừng già mà nhìn lá rụng, bên dòng sông thấy nước lững lờ. Bên đống rác thấy trẻ mưu sinh và còn nhiều hình ảnh ẩn tàng trong tâm thức của ông già râu tóc xòm xoàm ấy. Một trong những hình ảnh lưu lộ và luôn tuôn chảy dạt dào trong lòng của Thầy là ý thức để nhận chân tuổi trẻ, một năng lực sinh tồn mảnh liệt của dòng sử mệnh Phật Việt và Tộc Việt. Thầy viết trong "Suy Nghĩ Về Hướng Giáo Dục Cho Tuổi Trẻ" như sau: "Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống. Cho nên, sự học Phật pháp không hề cản trở sự học thế gian pháp; kiến thức Phật học không xung đột với kiến thức thế tục. Duy chỉ có điều khác biệt, là học Phật khởi đi từ thực trạng đau khổ của nhân sinh để nhận thức đâu là hạnh phúc chân thật. Bi và trí là đôi cánh chắc thật sẽ nâng đở tuổi trẻ bay lượn vào suốt không gian vô tận của đời sống."

Quảy gánh ra đi không phải chi riêng cho mình, mà ra đi chung cho một vận hội, dù sự ra đi ấy có vùi thây nơi "bờ sông", "hốc núi". Sự quảy gánh ra đi là thể hiện lòng yêu thương cho mình, cho người. Ra đi như bỏ lại bụi đường sau lưng, hướng về núi xanh phía trước để sống với cái hồn nhiên. Thiên nhiên. Man nhiên như tự thuở nào. Tự thuở tâm người thánh thiện. Lòng người chân như. Bức thư gởi Gia đình Lam, đã gói trọn tình yêu thương, tính bất biến của Phật pháp được diễn đạt trong bức thư ấy. "ACE thân mến, Xuân muộn, hoặc xuân trể. Tùy theo mùa mai nở. Mà cũng còn tùy ước hẹn của tình riêng. Muộn hay trể, tôi vẫn muốn gởi đến Anh Chị, trong và ngoài Gia đình Lam một cành mai. Gốc mai già cổi. Tương truyền cũng đã mấy ngàn năm. Giữa mùa đông giá lạnh, trong đêm đen, ngoài kia sương rơi, hay mưa bão, không biết. Tôi giật mình như gốc mai già. Vội vã lần ra trước sân. Gốc mai già vẫn còn đó. Bẻ một cành hoa để dành bằng hữu. Lỡ khi sương gió không thương tình, thì mình còn giữ được chút tình nào, để tặng những người mình yêu?

Thao thức chờ mặt trời mọc. Tôi mang cành mai ra tặng Mặt trời. Bấy giờ, tôi còn mơ hay đã tỉnh, để khi nhìn lại, cành mai trong tay thật, hay giả, mà chỉ có sắc, không hương? Thật hay giả, soi bóng mặt trời, vẫn không nhận thức được. Nhưng dù thật hay giả, tôi vẫn gởi đến Anh Chị. Vì, ngoài cái thật, và cái giả, còn có một tấm lòng! Trước cổng vườn xuân Tân Tỵ - Tuệ Sỹ - Đình Tiền Tạc Dạ Nhất Chi Mai."

Quảy gánh ra đi trên đôi vai gầy. Trên tấm thân bé bỏng, gầy guộc, nhưng trong tâm thức tồn trử một lượng sóng người nhấp nhô, hùng vĩ, xô dạt, phá tung mọi thành trì ngăn chắn, như vách đá, tường đồng, để hiện thân trên cánh đồng hoang lô nhô những dấu chân người của thời tiền nhân. Quì xuống, gào thét cho bùng vỡ cuộc say của nhân thế. Cho đêm trường tỉnh mộng đi hoang, mà vực dậy những gì đã mất. Lấy lại những gì đã vượt ra khỏi tầm tay cho một quê hương, dân tộc nhiều đọa đày.

Một lần quảy gánh ra đi, để rồi không đi nữa. Vì đã có một quê hương thanh bình. Quê hương đó được tưới tẩm bằng tình yêu thương chân thật. Bằng lý tưởng sống thanh cao. Bằng phẩm chất Phật từ bi, hỷ xã.

San Diego, ngày 9 tháng 01 năm 2013

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2220)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1727)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2037)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1745)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1733)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1903)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1913)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1568)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1736)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2079)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1827)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2392)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1722)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1682)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2127)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1951)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2096)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1633)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2254)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1599)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1876)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1771)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1830)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1674)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2415)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2125)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2071)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1878)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2234)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1802)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1924)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2158)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1686)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1951)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1946)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2158)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1930)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1769)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1762)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1880)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2164)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1717)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1685)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2253)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1957)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1784)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2358)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant