Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cõi Nhân Sinh

23 Tháng Tư 201300:00(Xem: 14000)
Cõi Nhân Sinh


Cõi Nhân Sinh

 

Ngày xưaViệt Nam Cụ Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ vừa làm văn vừa làm võ tướng có để lại nhiều bài thơ hay cho đời, trong đó có bài chữ nhàn như sau:

“Thị tại môn tiền náo

Nguyệt lai môn hạ nhàn

So lao tâm lao lực cũng một đàng

Người trần thế muốn nhàn sao được

Vậy phải lấy chữ nhàn làm trước

Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài

Cuộc nhân sinh chừng bảy, tám, chín, mười mươi

Mười lăm trẻ, năm mươi già không xiết kể

Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe

Trần có vui sao chẳng cười khì

Khi hỷ lạc, khi ái dục, khi sầu bi

Chứa chi lắm một bầu nhân dục

Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc

Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn

Cầm, kỳ, thi, tửu với giang san

Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế

Ngã kim nhật tại tọa chi địa

Cổ chi nhơn tằng tiên ngã tọa chi

Ngàn muôn năm ôi cũng thế ni

Ai hay hát mà ai hay nghe hát

Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất

Để Ông Tô riêng một thú thanh tao

Chữ nhàn là chữ làm sao”.

Đây là một trong những bài thơ rất hay cũng như có ý nghĩa về vô thường, khổ, không, sanh diệt, rất gần gủi với Phật Giáo. Thuở ấy, cách đây chừng gần 50 năm về trước, những người học trò Trung Học đệ nhứt cấp đều phải trả bài thuộc lòng cho Thầy giáo, cứ mỗi lần có giờ Việt văn. Thuở ấy học cũng chỉ để mà học. Không ngờ bây giờ sau gần hơn nữa thế kỷ có mặt với đời, những gì của Uy Viễn tướng công đã thổ lộ tâm tư của mình trong thế kỷ thứ 20 có lẽ sẽ mãi mãi là những bài học quý giá cho đời sau. Tuy Ông có vẻ bi quan một tí; nhưng đó cũng là lẽ thường tình của những người đã từng trải mọi cuộc vui với đời như Ông; nên mới thổ lộ tâm tình của mình được một cách thực tiển như vậy.

Cõi Người Ta như có lần cố Thi Sĩ Bùi Giáng đã dịch thành tác phẩm từ chữ Terre des Home cũng thật là bất tuyệt. Mặc dầu lúc sống, Ông chỉ có cửa chùa cưu mang và đến khi ra người thiên cổ rồi, lại có nhiều người tìm đến thơ Ông để đọc, nhằm hồi tưởng đến một nhà thơ lớn của quê hương xứ Quảng. Điều ấy cũng hợp với câu:

“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say”.

Cõi đời vốn là cõi tạm. Ai trong chúng ta đến đây nhiều lắm là một trăm năm, rồi cũng phải từ giả tất cả. Nhưng trong một trăm năm năm ấy chúng ta đã để lại cõi trần nầy quá nhiều điều bất ổn, để rồi ta buông xuôi hai tay, trở lại với trạng thái uyên nguyên của đất trời. Những gì của gió, xin trả lại cho gió; những gì của hơi nóng xin trả lại cho lửa; những gì của nước, xin gửi lại cho suối nguồn và những gì của đất, xin trả lại cho đất. Thế mà đã có ai ý thức rõ được điều nầy, để khi ra đi được thỏng tay vào chợ chăng?

Tôi đến xứ Âu Châu nầy từ năm 1977, kể đến nay cũng đã 36 năm rồi. Trong 36 năm ấy đã có không biết bao nhiêu việc đi qua đời mình; hay có, dỡ có, thành công có, thất bại cũng chẳng phải là không. Ở cái tuổi xế chiều 65 nầy, cũng nên nhìn lại mọi sự việc của cuộc thế như Uy Viễn tướng công cũng không phải sớm mà cũng chẳng phải muộn màn gì. Mỗi người chúng ta khi sinh ra trong cuộc đời nầy đều có nhiều lý do trong trùng trùng duyên khởitrùng trùng biến hiện của vạn pháp, như trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật đã chỉ bày. Xin cảm ơn đời và xin tạ ân Đạo Pháp đã cho tôi có được nhiều cơ hội để đến, đi, ngồi lại, ngắm nhìn cuộc đời nầy trong bao nhiêu nổi thăng trầm của nhân thế. Tôi phải cảm ơn đời, cảm ơn người. Nếu không có những trợ duyên nầy tôi sẽ chẳng có ý nghĩa nào cả khi tôi hiện hữu trên nơi nầy cả. Có mình phải có họ và có họ phải có mình. Cuộc sống nầy là một sự tương tức với nhau như hơi thở; không thể lọai bỏ ra ngoài cơ thể hay tâm thức được. Chỉ có chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc an lạc giải thoát và cũng chính từ những oan khiên nghiệt ngã của cuộc đời nầy, sẽ giúp ta tự tin hơn khi đi vào cuộc sống của cõi nhân sinh nầy.

Phật pháp vốn không có biên giới; cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy. Không điều kiện nào cả và hoàn toàn không có một sự ép buộc nào. Do vậy tâm tôi rất thư thái khi suy niệm về quá khứ. Tôi cũng không nghĩ rằng mình đến đây để phải ở lại đây lâu dài, ngay cả trăm năm đi nữa, thì cũng giống như gió thổi mây bay thôi. Đúng là cuộc đời nầy nó không dừng lại, mà con người vẫn luôn bị động bởi tử sinh, sinh tử dài lâu, chưa bao giờ vượt ra khỏi.

Tại bắc Âu Châu có 4 nước tiêu biểu. Đó là Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch. Mỗi xứ đều có ngôn ngữ riêng, văn hóa riêng và tiền tệ cũng riêng biệt. Mặc dầu trước đây Phần Lan là thuộc địa của Thụy Điển và Na Uy là thuộc địa của Đan Mạch. Ý nghĩa chữ thuộc địa nầy nó không nặng nề như những xứ bị trị tại Á Châu trong thời gian đệ nhất và đệ nhị thế chiến vừa qua. Nó chỉ mang một ý nghĩa là: nước nào mạnh hơn về mọi mặt thì nước ấy sẽ làm chủ cả khu vực ấy. Thế mà điều chẳng ai ngờ được là ngày nay thế giới đã bình chọn 4 nước Bắc Âu nầy có đời sống an ổn nhất so với gần 200 nước khác trên quả địa cầu nầy. Vậy đâu là sự thật ?

Riêng với người tỵ nạn Việt Nam của chúng ta ở Đan Mạch cũng hưởng được những phúc lợi cá nhân khác với những người sống ở Đức hay ở Hoa Kỳ. Ví dụ như sau: Một người trên 60 tuổi chưa có quốc tịch Đan Mạch; hiện đang lưu trú ở diện tỵ nạn; nhưng bây giờ muốn trở lại quê hương để sinh sống thì chính phủ Đan Mạch chấp nhận và cấp mỗi tháng độ 500 USD để chi dùng và sau một năm ở Việt Nam nếu đương sự cảm thấy thích hợp muốn ở lại luôn, thì chính phủ Đan Mạch sẽ cấp 100.000 Kr. một lần và mỗi tháng trong những ngày còn lại ở Việt Nam vẫn nhận được tiền trợ cấp 500 USD như trước. Nếu người nào muốn nhận 5 năm một lần cũng được, khi thấy mình tuổi đã xế chiều, không còn thọ hưởng được bao nhiêu năm nữa, chính phủ vẫn giúp đỡ, không chối từ. Nếu ai muốn trở lại Đan Mạch sau một năm ở Việt Nam cảm thấy không thích hợp, thì chính phủ ở đây cũng cho quay trở lại Đan Mạch để tiếp tục cuộc sống như trước đây. Dĩ nhiên những đạo luật như thế được Quốc Hội thông qua từng thời điểm khác nhau và hoàn toàn không nhứt thiết năm nầy giống năm khác.

Xem Thêm Hình Ảnh Chùa Liên TâmVề Tôn Giáo ở các xứ Bắc Âu nầy cũng có những điều khác hẳn với các nước trên thế giới ngày nay. Ví dụ như Vương Quốc Na Uy là một điển hình. Mỗi ngôi chùa Việt Nam ở đây có bao nhiêu tín đồ thì chính phủ sẽ căn cứ theo đó để giúp lệ phí điều hành hằng năm cho chùa ấy. Đây là quyền lợi sinh hoạt tín ngưỡng sống trong xã hội an bình của người dân tại đây. Điều nầy giống như một giấc mơ đối với những xứ ngoài Âu Mỹ. Có chùa nhận được hằng nhiều triệu NKR để điều hành công việc chùa. Hoặc chính phủ trợ giúp một hai lần trong năm cho các chùa qua các họat động văn hóa v.v…

Tại Phần Lan cách đây chừng gần 30 năm về trước đã có một ngôi Niệm Phật Đường Thọ Quang được thành lập tại Helsinki; nhưng số phận của ngôi Niệm Phật Đường nầy nó cũng yểu mệnh như người sáng lập ra nó. Bẳng đi một thời gian dài, một Hội Phật Giáo tại Turku được thành lập và GHPGVNTN Âu Châu đã đề cử chư Tăng sang đây để đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần. Thế nhưng trải qua không biết bao nhiêu là sóng gió, tuyết sương; nay ngôi chùa Liên Tâm ở đây đã được hình thành; mặc dầu người cựu Hội Trưởng đã ra đi vĩnh viễn. Ngôi chùa bây giờ có diện tích độ 600 mét vuông được tọa lạc trên một khu đất với diện tích là 11.000 mét vuông, ở giữa cánh đồng thóang mát. Giá thành xây cất cho đến giờ nầy là 800.000 Euro; nhưng vẫn còn nợ ngân hàng và Phật Tử độ 400.000 Euro nữa.

Bộ Xã Hộicho biết rằng trong tương lai gần họ sẽ cho xây một chung cư cho người Việt Nam đối diện bên kia đường với chùa. Quả thật đây là một tin vui cho người lớn tuổi. Vì lại được sống gần chùa. Đây thật là phước báu vô ngần. “Cầu được, ước thấy” là điều mà trong đời ai lại chẳng ước mong, mà nay sắp trở thành hiện thực. Chính phủ ở đây họ lo cho dân như thế đấy. Từ cái ăn cái mặc, cho đến cả đời sống tâm linh nữa. Cho nên thế giới đánh giá cao về đời sống của người dân ở các xứ Bắc Âu cũng phải thôi.

Từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2013 nầy đánh dấu một sự kiện lịch sử. Đó là khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 được tổ chức tại Turku, Phần Lan do Đại Đức Thích Hạnh Bảo, Trụ Trì chùa Liên Tâm kiêm Hội Trưởng làm Trưởng Ban Tổ Chức địa phương và GHPGVNTNÂU điều hành tổng quát. Điều đặc biệt hơn nữa là Bộ Văn Hóa ở đây cũng giống như Bộ Văn Hóa của một vài Tiểu Bang ở Đức Quốc là không lấy tiền thuê phòng học trong suốt thời gian 10 ngày ấy, mà chỉ lấy tiền điện, Gas, nước tượng trưng mà thôi. Quả thật, chẳng có nước nào ở ngọai quốc hưởng được những điều kiện thuận lợi như thế nầy. Vì chính Phủ tại đây cho rằng: tất cả những hoạt động nầy của Giáo Hội đều nằm trong phạm vi văn hóa.

Bây giờ thì Đạo Hữu cựu Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Turku Chơn Ngôn Vĩnh Tuyên không còn nữa; nhưng chắc chắn rằng Đạo Hữu cũng hẳn vui, khi thấy hằng trăm Chư tôn đức và hằng ngàn Phật Tử khắp nơi tại Âu, Mỹ, Úc… vân tập về nơi đây để cùng tu, cùng học và cùng chiêm nghiệm giáo lý giải thoát của Phật Đà.

Xin nguyện cầu cho tất cả những ai có thiện duyên với Phật Pháp, dầu thuận hay nghịch trong quảng đời còn lại của mình thì hãy an nhiên để thấy rằng: trong ta có người và trong người có ta. Sự sống của Anh của Chị cũng là sự sống của tôi và ngược lại trong sự tồn tại của tôi ở cõi đời nầy cũng đều có sự tồn tại của Anh và của Chị cũng như của tất cả mọi người. Vì lẽ, không một ai trong chúng ta có thể sống trong kiếp nhân sinh nầy hoàn toàn độc lập được cả. Hãy sống cho nhau và vì nhau để đi nốt con đường còn lại của chúng ta trên cõi đời nầy. Có như vậy mới không hổ danh là người Việt Nam ra đi khỏi nước chỉ để tìm hai chữ TỰ DO thật sự, mà nơi quê hương của chúng ta chưa thể hiện trọn vẹn được điều nầy.

Viết xong vào một sáng mùa xuân tại thư phòng chùa Liên Tâm, Turku, Phần Lan khi bên ngoài ánh thái dương rọi chiếu khắp cả một vùng trời. 

Thích Như Điển - Nhân chuyến Phái Đoàn Hoằng Pháp tại Âu Châu đến đây giảng pháp.

{Xem thêm hình ảnh: Khóa Tu Học Phật Pháp tại Chùa Liên Tâm}


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2240)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2543)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3271)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2558)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2479)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2232)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2593)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3064)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2661)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2728)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2785)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3085)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2296)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3283)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2835)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2962)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant