Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

11 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 10091)
Phẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

pham_chat_ton_giaoPhẩm Chất Tôn Giáo Cần Thiết Cho Cuộc Đời

 

Một trong những yếu tố khiến con người của thế giới văn minh đương thời quan tâm đến Phật giáođặc tính nhân bản của Đức Phật. Trên bình diện lịch sử, phần lớn giáo chủ các tôn giáo trên thế giới đều là thượng đế, đấng sáng thế, thánh thần, hoặc là nhân vật thần bí được mặc khải xuống trần gian để thế thiên hành đạo. Những nhân cách như thế có lẽ khó có sự đồng cảm với thế thái nhân tình của con người trong cuộc sống đời thường. Bởi lẽ, ai đã từng khổ đau vì đổ vỡ hạnh phúc, tuyệt vọng vì thất bại trong cuộc sống mới cảm nhận được giá trị của niềm khích lệ, chia sẻ và cảm thông. Một nụ cười, một lời động viên, một sự an ủi trong những tình huống như thế sẽ là chiếc phao cứu sinh giữa biển đời đau khổ. Nói theo ngôn ngữ của đại thi hào Nguyễn Du “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Không ai cảm nhận một cách sâu sắc nỗi đau sanh lão bệnh tử, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ… của con người bằng chính con người! Không ai thấu hiểu được hạnh phúc lớn lao của người mẹ khi thấy đứa con chính mình sinh ra lớn khôn từng ngày bằng chính những bà mẹ. Nói khác đi, chỉ có con người mới biết con người nghĩ gì, thích gì, khát khao điều gì…! Chỉ có con người mới cảm nghiệm được hạnh phúc cũng như nỗi đau về thân xác cũng như tinh thần của con người! Lý tưởng sống của tôn giáo nào giải quyết được yêu cầu trên chắc chắn sẽ được con người chấp nhận. Vì lẽ, khi được cảm thông và chia sẻ người ta dễ dàng lắng nghe nghệ thuật sống đưa đến sự an bình của nội tại ấy.

Giáo chủ của đạo Phật là một con người lịch sử! Ngài tên là Sirdattha (Tất-đạt-đa), con vua Suddodhana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Maya của nước Sakya (Thích-ca) thuộc đất nước Nepal ngày nay. Trước khi trở thành Phật, bậc giác ngộ được nhân loại tôn kínhquy ngưỡng, thái tử Sirdattha cũng sinh ra và lớn lên như mọi con người. Thái tử đã trải nghiệm tất cả những hương vị mặn, ngọt, chua, cay của cuộc đời; những cung bậc hỷ, nộ, ái, ố và được, mất, thịnh, suy của kiếp người. Từ đó, Ngài thấu hiểu được tâm trạng con người và cảm nhận được giá trị thật của kiếp người. Ngài biết cần phải hành xử như thế nào để giúp đồng loại trong từng tình huống cụ thể. Vì vậy, dù được thế giới kính ngưỡng, tôn xưng là Thế Tôn, bậc thầy của trời người sau khi tìm ra con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân, Đức Phật vẫn luôn ứng dụng tinh thần khế cơ khế lý trong cuộc đời hành đạo của Ngài. Chính tinh thần tùy bệnh cho thuốc, tùy căn cơ thuyết pháp đã giúp được nhiều người ra khỏi những nỗi khổ của tự thân và có được nhân duyên tiếp xúc với đạo Phật.

Kinh Tương ưng ghi lại rằng sau khi trực tiếp nghe pháptu tập dưới sự giảng dạy của Đức Phật, Bà-la-môn nữ Bhannanjani thật sự kính ngưỡng Ngài và thường ca ngợi Ngài trong các hội chúng Bà-la-môn. Việc làm ấy đã khiến cho một bậc trí giả ngoại đạo là Bà-la-môn Bhadavada ganh tỵ, tức tối. Bhadavada mắng nhiếc bà Bhannanjani là ti tiện, ngu dốt vì buông lời tán thán lão Sa-môn đầu trọc Gotama (Cù-đàm) và tuyên bố sẽ luận phá đạo sư của bà. Để thỏa mãn cơn bực tức ấy, Bà-la-môn Bhadavada đến gặp Đức Phậtvặn hỏi Ngài rằng: “Giết vật gì được lạc, giết vật gì không sầu. Có chăng một pháp gì, Ngài tán đồng giết hại! Thưa Tôn giả Gotama”1. Thay vì phải đón nhận sự phản hồi tiêu cực theo cách thường tình của một người bị đụng chạm tự ái, xúc phạm tự ngã, Bà-la-môn Bhadavada lại được Đức Phật vui vẻ trả lời: “Giết phẫn nộ được lạc, giết phẫn nộ không sầu! Pháp ấy bậc hiền thánh, tán đồng sự giết hại; giết pháp ấy không sầu”2. Cung cách truyền giáo đầy trí tuệhòa nhã ấy đã khiến Bà-la-môn ngạc nhiên, thán phục, khởi lòng ngưỡng mộ và phát tâm xin làm đệ tử tại gia của Đức Phật. Có lẽ đây là đức hạnh cần thiết mà những người mang trọng trách truyền bá tôn giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay cần phải nghĩ đến. Đặc biệt, trong một xã hội đang tràn ngập sự thù hận, lòng ganh ghét, đố kỵ, hơn thua vì địa vị, danh tiếngquyền lợi thì những phẩm chất tôn giáo mang đậm tính nhân văn lại cần thiết hơn bao giờ hết. Thế giới con người đang quằn quại trong chiến tranh, giết chóc, đấu đá, trả thù… bởi chính sự ích kỷ, lòng tham lam, tính tự cao, tự đại, chấp thủ, định kiến của con người. Vì thế, lòng khoan dung, độ lượng, vị tha, nhân ái là chất liệu vô cùng cần thiết, có khả năng tạo nên một môi trường sống hòa bình, hữu nghị và thân thiệnnhân loại đang hướng đến. Cách hành xử của Đức Phật được ghi lại trong Kinh tạng Pali3 có thể xem là bài học tiêu biểu để chúng ta suy nghiệm.

Với động cơ mong muốn đả bại Đức Phật để làm rạng danh tôn giáo mình (đạo Lõa thể), gia chủ Ưu-ba-li, người đệ tử tại gia trí thứcgiàu có nhất của Nigantha Nataputta, đi đến luận chiến với Đức Phật về chủ đề triết lý nghiệp. Sau cuộc luận đàm đầy gay cấnthú vị, cuối cùng gia chủ Ưu-ba-li thật sự tâm phục, khẩu phục trí tuệ siêu việt và khả năng biện tài vô ngại của Đức Phật. Sau đó, Ưu-ba-li phát nguyện quy y Tam bảo và mong Đức Phật nhận ông làm đệ tử cư sĩ. Thay vì hoan hỷ và phấn khích khi được một bậc trí giả, một người giàu có mong muốn được làm học trò mình, Đức Phật lại ân cần khuyên bảo Ưu-ba-li: “Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông”. Cách hành xử một cách thận trọngnhân ái của một giáo chủ tôn giáo với người ngoại đạo đã khiến Ưu-ba-li vô cùng kinh ngạc và kính phục và phát biểu rằng: “Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con ‘Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông’ - Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: ‘Gia chủ Ưu-ba-li đã trở thành đệ tử của chúng tôi. Nhưng Thế Tôn lại nói với con: ‘Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như ông”4

Tuy nhiên, thái độ đầy lòng nhân ái và vị tha của Thế Tôn mới thật sự làm cho Ưu-ba-li xúc độngnhận ra được giá trị tâm linh chân thật của một bậc giải thoát, người đã hoàn toàn vượt lên những danh vọng, lợi dưỡng của cuộc đời. “Này gia chủ, đã từ lâu gia đình ông như là giếng nước, mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với ông”. Lời dạy này hoàn toàn trái ngược với những gì Ưu-ba-li được nghe trước đó “Sa-môn Gotama đã nói: Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho đệ tử Ta, chớ bố thí cho những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước đức lớn… Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha”5.

Thái độ hành xử trên của Đức Phật có lẽ là phẩm chất tôn giáothế giới thời nay đang tìm kiếm để giải quyết những sự xung đột mang nặng màu sắc cực đoan, định kiến về tín ngưỡng, tôn giáochủ nghĩa. Khi được học tập và ứng dụng một triết lý sống mang tinh thần vị tha, độ lượng nhưng đầy trí tuệ, giải thoát vào trong chính cuộc sống của họ, người ta sẽ rất tỉnh táosáng suốt trong việc chọn lựa một tôn giáo để tôn thờ vì mục đích hạnh phúcan lạc cho mình và xã hội. Do vậy, mặc dầu bị người thầy cũ của mình tức ngài Nigantha Nattaputta mắng nhiếc, chê trách là đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama chinh phục, lôi cuốn, cư sĩ Ưu-ba-li đã nói như sau: “Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi…, nếu tất cả Bà-la-môn…, Vessa…, Sudda…, chư thiênloài người được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật an lạchạnh phúc lâu dài cho bà con huyết thống thân yêu của tôi, cho Bà-la-môn…, cho Vessa... cho Sudda… cho chư thiên và loài người…”6.

Rõ ràng, những phát biểu của cư sĩ Ưu-ba-li xuất phát từ chính sự trải nghiệm được giá trị thật sự của một nhân cách sống vì lợi ích, an lạchạnh phúc của thế nhân, như lời dạy của Đức Phật khi nói đến giá trịý nghĩa về cuộc đời của Ngài: “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho số đông, an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiênloài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác…”7.

 

 Viên Trí


Chú thích:

1 Kinh Tương ưng bộ, tập 1.

2 Sđd.

3 Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung bộ, tập 1.

4 Sđd.

5 Sđd.

6 Sđd.

7 Kinh Tăng chi bộ, tập 1.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1327)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1309)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1437)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1333)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1406)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1387)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1284)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1342)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1353)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1387)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1412)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1281)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1539)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1384)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1241)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1208)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1272)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1257)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1398)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1130)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1118)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1175)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1314)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1335)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1105)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1221)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1158)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1302)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1289)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1424)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1530)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1271)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1256)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1393)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1429)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1349)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1676)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1319)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1320)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1353)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1202)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1224)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1360)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1476)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1535)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1706)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1566)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1463)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant