Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Đức Phật Giáo Từ Điểm Nhìn Giới Không Sát Sanh

10 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11378)
Đạo Đức Phật Giáo Từ Điểm Nhìn Giới Không Sát Sanh

Đạo Đức Phật Giáo Từ Điểm Nhìn Giới Không Sát Sanh


dao_duc_phat_giaoVấn đề đạo đức được xem như là đồng nhất giữa các bộ phái Phật giáo, dù là trước đây, trong thời kỳ Phật giáo chia làm nhiều bộ phái khoảng 100 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn, hay là hiện nay, giữa Phật giáo Bắc truyền và Phật giáo Nam truyền. Có thể khẳng định, sống theo năm giới, mười thiện là yêu cầu sơ đẳng nhất mà cũng là căn bản nhất của người con Phật.

Năm giới mọi người đã biết: 1. Không sát sinh mà lại phóng sinh, tôn trọng sự sống của muôn loài. 2. Không lấy của không cho mà lại bố thí. 3. Không tà dâm mà sống theo nếp sống trong sáng, chánh hạnh. 4. Không nói dối, lúc nào cũng nói lời chân thật. 5. Không uống các chất say, lúc nào cũng ăn uống điều độ, giữ gìn thân thể khỏe mạnh, trí óc sáng suốt tỉnh táo. Có thể xem năm giới, năm quy tắc sống xứng đáng với con người, với loài người như là loài sinh vật cao cấp của hành tinh này. Ngay chỉ qua giới thiệu đại khái, chưa đi sâu vào phân tích chi tiết, chúng ta có thể thấy những quy tắc đạo đức Phật giáo, nếu được mọi người chấp hành nghiêm túc, sẽ đem lại cho cá nhânxã hội hạnh phúcan lạc, giảm bớt cho cá nhânxã hội bao nhiêu khổ đau và tổn thất.

Điểm đáng nói trong năm giới, giới không sát sanh được Đức Phật thiết lập đầu tiên, có vị trívai trò hàng đầu trong năm giới. Có thể xem giới không sát sanh là cơ sở, cội nguồn để xác lập đạo đức, sự nhân cách con người. Các giới còn lại hình thành và đi vào sự vận hành trong đời sống thực tiễn khi cá nhân người đó phải biết tuân thủ thực thi giới không sát này. Do đó, nó không chỉ có giá trị nhân văn cao trong thiết chế của một xã hội an bình mà nó còn là nền tảng, chuẩn bị để chúng ta vươn tới niềm an lạc xuất thế, cho đến cái tối thiện, cảnh giới hạnh phúc vĩnh hằng là Niết-bàn.

Một người thực thi giới Không sát sinh, tức là người đó quý trọng sự sống dưới mọi hình thức, dù là đối với súc vật và cây cối. Đối với đạo Phật, giết hại súc vật một cách không cần thiết, hủy hoại thảo mộc một cách vô tổ chức là một tội lớn. Cho nên, hành trì giới này không chỉ tạo ra sự an lành cho chính mình mà còn đem lại sự bình an cho những người xung quanh, nhất là đảm bảo một môi trường sống hòa bình, trong lành. Hay nói cách khác, lòng từ được hóa hiện trong mỗi trái tim biết yêu thươngquý trọng sự sống. Tại đây, sự tham lam, sân hận, si mê, sự băng hoại đạo đức về trộm cướp, tà dâm, không tôn trọng sự thật, buông thả trong say sưa sẽ giảm thiểu và đi đến đoạn trừ.

Lòng từ, lòng bi của đạo Phật mở rộng, bao trùm tất cả mọi loài hữu tình, lớn hay nhỏ, xa hay gần, thấy được hay không thấy được: “Ở đây, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy với phương thứ hai, cũng vậy với phương thứ ba, cũng vậy với phương thứ tư. Như vậy, cũng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân. Với các tâm bi, hỷ, xả, vị Tỷ-kheo cũng làm như vậy” (Trung bộ III - Kinh A Na Luật, 284).

Ý tứ của đoạn văn trên là trong việc tu tập lòng từ, chúng ta cần làm cho lòng từ trải rộng khắp cả bốn phương trời, vô lượng, vô biên, không có phân biệt trú xứ và đối tượng. Ở đây, cần nói rõ là người Phật tử coi trọng sự sống khắp nơi, sự sống dưới mọi dạng, dù là dạng côn trùng hay là dạng con người. Và ở đây, đạo Phật khác với các tôn giáo khác, thường xem con ngườitrung tâm của vũ trụ, và tất cả mọi loài hữu tình tồn tại là để cung cấp thịt cho con người. Ở Ấn Độ, với sự ra đời của đạo Phật, tục lệ giết hàng trăm trâu bò cho các tế đàn dần dần được hạn chếtiến tới xóa bỏ. Thay vào đó, lần đầu tiên trên thế giới, người ta xây dựng các nhà thương cho súc vật.

Một vấn đề nữa cần chú ý trong giới sát sinh của đạo Phật là tội sát sinh chỉ được xem là tội, và tạo ra quả báo tương ứng, khi có đủ các điều kiện như sau: 1) Có một loài hữu tình có mặt, là người hay là súc vật. 2) Người giết biết rằng đó là một loài hữu tình. 3) Người giết có dụng ý giết. 4) Hành động giết, bằng phương tiện thích hợp. 5) Hành động giết thật sự xảy ra, và một loài hữu tình đã bị giết, đã bỏ mạng.

Nếu vắng một trong năm điều kiện trên, thì dù cho có một loài hữu tình bị bỏ mạng, nhưng đó chỉ là một sự cố, không đem lại quả báo xấu gì cho người ngộ sát.

Mục 4 ghi: Hành động giết bằng phương tiện thích hợp. Đạo Phật phân biệt có tất cả 6 phương phápphương tiện giết: 1) Giết bằng chính bàn tay mình. 2) Ra lệnh cho người khác giết. 3) Giết bằng súng, ném đá, đánh gậy v.v… 4) Giết bằng chôn sống. 5) Giết bằng ma thuật. 6) Giết bằng bùa chú.

Dù là giết bằng phương pháp hay phương tiện khác nhau, nếu năm điều kiện của tội cố sát có đầy đủ, thì đó là phạm giới sát, và kẻ phạm tội nhất định bị quả báo xấu hoặc trong đời hiện tại hoặc là trong một đời sau.

Kẻ phạm tội sát thường bị lương tâm cắn rứt lâu dài, sau khi mệnh chung sẽ phải đọa vào các cõi ác, và nếu được sanh lại làm người thì thường bị tàn tật bẩm sinh, xấu xí, không ai ưa, nhát gan, không bạn bè, hay bệnh tật, có địa vị xã hội thấp hèn, buồn chán ảo não.

Khi phân tích một hành vi đạo đức hay là phi đạo đức, như trong trường hợp tội sát sinh, đạo Phật thường phân tích cụ thể hành tướng của tội: những điều kiện xảy ra tội, phương tiệnphương pháp phạm tội, nguyên nhân nội tâm dẫn đến phạm tội (trong trường hợp tội sát sinh là lòng sân giận, và thiếu lòng từ), cuối cùng kết quả, hay là quả báo xấu của tội ác trong đời này và đời sau.

Để triệt bỏ đến tận gốc khả năng phát sinh tội sát, đạo Phật còn chỉ bày cho chúng ta những phương pháp tâm lý rất hữu hiệu để khắc phục, hạn chế tiến tới xóa bỏ hẳn tâm sân và tu tập lòng từ, lòng bi đối với mọi người, mọi chúng sanh. Phật tử được khuyến khích đọc và nghĩ nhớ các đoạn kinh Phật nói về lòng từ, những điều tốt lành đến với ai có tu tập lòng từ, có tâm từ. Đây cũng là một trong nhiều phương pháp đoạn trừ lòng sân giận. Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, khi lòng từ đưa đến tâm giải thoát được tu tập, phát triển, hành trì nhiều, trở thành như cỗ xe, như nền móng, được an trú, củng cốhành trì đúng đắn thì có 11 điều lợi”. 11 điều lợi ấy là gì? 1) Ngủ yên giấc. 2) Ngủ dậy an lành. 3) Ngủ không mộng mị. 4) Mọi người thân thiết với mình. 5) Mọi loài hữu tình đều thân thiết với mình. 6) Được chư Thiên che chở. 7) Lửa, thuốc độc và vũ khí không hại được mình. 8) Tư tưởng dễ tập trung. 9) Phong độ bình thản. 10) Chết tỉnh táo. 11) Nếu không tiến cao hơn nữa, thì ít nhất cũng tái sinh lên cõi trời Phạm thiên.

Do đó, nếu không đoạn trừ được lòng sân, thì chúng ta không thể hưởng được 11 điều lợi ích, như Phật đã nói. Phật tử hãy ghi lòng tạc dạ các câu kệ sau đây trong kinh Pháp cú: “Nó mắng tôi, đánh tôi/Nó thắng tôi, cướp tôi/Ai ôm hiềm hận ấy/Hận thù không thể nguôi”(kệ 3). “Nó mắng tôi, đánh tôi/Nó thắng tôi, cướp tôi/Không ôm hiềm hận ấy/Hận thù khắc tự nguôi” (kệ 4).“Với hận diệt hận thù/Đời này không có được/Không hận diệt hận thù/Là định luật ngàn thu”(kệ 5). “Lấy lòng từ thắng sân giận/Lấy bố thí thắng gian tham/Lấy thiện thắng không thiện/Lấy chân thắng hư ngụy”(kệ 223)…

Phật còn chỉ bày cho chúng ta năm phương pháp cụ thể để đoạn trừ lòng sân giận, nảy sinh nơi chúng ta, mỗi khi gặp người phiền hà chúng ta, não hại chúng ta. “Này các Tỷ-kheo, có năm phương pháp đoạn trừ lòng sân giận, hoàn toàn đoạn trừ lòng sân giận, nảy sinh ở một tu sĩ. Năm phương pháp đó là gì? 1) Hãy nghĩ tới người nào hại mình, với lòng từ. 2) Hãy nghĩ tới người ấy với lòng bi. 3) Hãy nghĩ tới người ấy với niệm xả. 4) Hãy quên người ấy đi, như là không gặp người ấy. 5) Hãy nhớ lời Phật nói: “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa…” (Trung bộ III - Kinh Tiểu nghiệp phân biệt).

Đúng như vậy, khi một người đến làm phiền hà ta, não hại ta… thì đó là nghiệp do chính họ tạo ra và họ rồi phải chịu quả báo của nghiệp đó. Đáng lẽ, ta không giận họ mà còn phải thông cảm với họ, với lòng bi và lòng từ. Nếu ta sanh lòng sân giận, thì tức là ta cũng tạo nghiệp (dù chỉ là nơi ý), và ta cũng phải hứng lấy quả báo của nghiệp đó.

Nói chung lại, khi chúng ta thực thi giới không sát sanhchúng ta đang nuôi dưỡng tâm từ, tức là nuôi dưỡng tâm vô tham, vô sân, vô si. Điều đó cũng có nghĩa các giới không lấy của không cho, không tà dâm, không nói sai sự thật, không uống các chất say sẽ tự nhiên giảm thiểu và đi đến từ bỏ. Đối với mỗi hành vi thiện hay ác, người theo đạo Phật giữ giới đều đi sâu phân tích nguyên nhân của nó, mổ xẻ cặn kẽ hành tướng của nó, dự báo những hậu quả của nó ở đời này và đời sau, và điều quan trọng hơn là chỉ bày những phương pháp rất cụ thể để đoạn trừ hành vi ác, và bồi dưỡng, phát triển hành vi thiện. Làm được vậy, chắc chắn, đạo đức Phật giáo góp phần dựng xây một cuộc sống an bình, nội tâm an tịnh sẽ luôn hiện hữu trong mỗi người.

Thích Phước Đạt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2754)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2528)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2361)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2322)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2216)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2569)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3070)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2804)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3005)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2480)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2752)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant