Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nguyện Cho Người Khác Được Hạnh Phúc

06 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9999)
Nguyện Cho Người Khác Được Hạnh Phúc


Nguyện Cho Người Khác Được Hạnh Phúc


Nguyễn Thế Đăng



nguyen-cho-nguoi-khac-hanh-phucNguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng…

Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế?

- Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.

- Với hành động nguyện cho, tâm thức chúng ta được nâng caomở rộng. Nói cách khác, tâm thức chúng ta được chuyển hóa một phần từ tiêu cực sang tích cực. Điều này đem lại sự an vui cho tâm.

- Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chúng ta phải nghĩ đến hạnh phúc an vui chứ không phải khổ đau tranh chấp. Sự nghĩ đến hạnh phúc này làm tâm được thấm nhiễm hạnh phúc.

Khi mong muốn tốt đẹp cho người khác, sự tốt đẹp ấy có mặt trong tâm ta. Như cầm một bông hoa cho ai, tay ta cũng thấm đôi phần mùi hương của nó, mắt ta cũng thưởng thức được hình sắc của nó. Tóm lại, chúng ta sống bằng những ý tưởng của mình. Sống bằng ý tưởng lạc quan, thiện ý thì có hạnh phúc. Ý tưởng bi quan, ác ý thì phiền não khổ đau.

- Nguyện cho người khác được hạnh phúc làm tuôn trào từ bi hỷ xả. Khai mở từ bi hỷ xả là khai mở nguồn hạnh phúc. Được bao trùm trong nguồn từ bi hỷ xả ấy, chúng ta trải nghiệm mình và người là một, mình và thế giới là một.

Qua vài nhận xét trên, chúng ta thấy cách để có được hạnh phúc an vui mà ít tùy thuộc điều kiện nhất, nghĩa là tựdo nhất, là nguyện cho người khác được hạnh phúc. Điều này chỉ tùy thuộc vào tâm chúng ta mà không tùy thuộc vào những điều kiện hoàn cảnh bên ngoài như giàu nghèo, địa vị, rỗi rảnh hay bận rộn, đang phiền não hay đang vui vẻ… Thế nên, nguyện là một quyền lợi sẵn có, không cần ai chế định, cho phép. Nguyện là quyền lợi để có được hạnh phúc bất cứ lúc nào thay vì là một bổn phận mỗi ngày phải tuân thủ. Nguyện là chìa khóa mở ra những kho tàng hạnh phúc chờ đợi được khai thác nằm trong mỗi người, bất kể hoàn cảnh, địa vị, tuổi tác, giàu nghèo…

“Mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc và có được những nguyên nhân của hạnh phúc,

“Mong cho tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau,

“Mong cho tất cả chúng sanh không bao giờ xa lìa hỷ lạc bao la vượt khỏi mọi khốn khổ,

“Mong cho tất cả chúng sanh luôn luôn ở trong sự buông xả siêu thoát mọi thương ghét”.

Đây là bốn lời nguyện Từ Bi Hỷ Xả. Bất cứ khi nào chúng ta phát khởi những lời nguyện này, chúng ta liền có an vui.

Một người muốn tự hoàn thiện thì luôn luôn sống trong nguyện cho người khác được hạnh phúc, bất cứ đang làm gì trong sinh hoạt hàng ngày:

“Khi cho thức uống, thức ăn, y phục, nguyện cho tất cả chúng sanh uống được nước pháp vị…, dứt sự khát ái thế gian, thường cầu trí giác ngộ, lìa cảnh dục, được sự hoan hỷ của pháp. Nguyện cho tất cả chúng sanh được một vị thấu rõ các Phật pháp đều không sai khác. Nguyện cho tất cả chúng sanh được y phục ‘biết hổ thẹn’ để che thân, bỏ lìa tà kiến ác pháp, da thịt mịn màng, nhan sắc tươi sáng, thành tựu cái vui đệ nhất của bậc Giác Ngộ…”.

“Nguyện tất cả chúng sanh rốt ráo ra khỏi những phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn thân bịnh, được thân Như Lai”.

“Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn tất cả khổ não bức bách, thành tựu năng lực tự tại an vui. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn những khổ đau, được tất cả hoan hỷ, dứt hẳn thân khổ được thân thanh tịnh an vui. Nguyện tất cả chúng sanh dứt hẳn các sự khổ, không có lòng oán hận, luôn thương mến nhau…”.

Toàn bộ phẩm Thập hồi hướng, kinh Hoa Nghiêm là những lời nguyện như vậy. Cho đến sự hoàn thiện cao rộng nhất là Mười Hạnh Nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền trong phẩm cuối của kinh Hoa Nghiêm. Mười Hạnh Nguyện này phát khởi từ pháp tánh, lưu xuất từ pháp tánh, nên là một với pháp tánh, nghĩa là trùm khắp vũ trụ; và do đó, chuyển hóa vũ trụ thành pháp giới Hoa Nghiêm.

Một đời sống bình thường của chúng ta càng có nhiều ‘nguyện cho’ thì càng được thăng hoa thành hạnh phúc. Đời sống của chúng ta càng thấm đẫm những nguyện cho thì đời sống ấy càng thấm đẫm hạnh phúc. Cuộc đời của chúng ta càng ngày càng giàu có những nguyện cho này; càng ngày càng giàu có hạnh phúc.

Mỗi người chúng ta đều tự do xông ướp đời mình bằng những nguyện cho, để được sống trong “đại dương hạnh phúclợi lạc cho tất cả những gì đang sống”:

Nguyện tôi là người bảo vệ cho những ai không có sự bảo hộ.

Là người hướng dẫn cho những ai đang đi trên đường. Với những ai muốn băng qua dòng sông,

Nguyện tôi là một con thuyền, một chiếc bè, một cây cầu.

Nguyện tôi là một hòn đảo cho những người mong mỏi bến đậu,

Một ngọn đèn cho những ai mong ngóng ánh sáng,

Là một cái giường cho những ai cần đặt lưng ngơi nghỉ. Nguyện tôi là một tôi tớ cho những ai cần sai bảo. Nguyện tôi là một viên ngọc như ý, một cái bình đáp ứng những mong muốn,

Một lời thần chú, và một cây thuốc. Nguyện tôi là một cây ban điều ước muốn, Là con bò ước cho tất cả chúng sanh.

Cũng như đất và những nguyên tố khác, Tồn tại như hư không tồn tại

Cho vô số chúng sanh đang sống

Nguyện tôi là nền tảng và phương tiện cho đời sống của họ.

Như thế, đối với bất cứ vật gì đang sống

Trong khắp không gian mười phương

Nguyện tôi là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng của họ

Cho đến khi tất cả họ vượt qua khỏi những biên giới của khổ đau.

(Đi vào Bồ tát hạnh của Shantideva, chương 3)

Được làm một cây thuốc, một viên ngọc như ý, một cái bình đáp ứng những mong muốn, làm bốn nguyên tố đất nước lửa không khí thiết yếu cho sự sống của chúng sanh, là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng cho tất cả những gì đang sống…, điều đó là hạnh phúc lớn nhất mà một con người có thể ước mong (nguyện) và thực hiện (hạnh). ■

NGUYỄN THẾ ĐĂNG

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2755)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2528)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2361)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3255)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2322)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2414)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2471)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2217)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2569)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3070)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2512)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2804)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3006)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2392)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2480)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2753)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2822)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2916)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2944)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant