Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chữ Nhân Trong Đạo Giáo

05 Tháng Ba 201400:00(Xem: 13856)
Chữ Nhân Trong Đạo Giáo


Chữ Nhân Trong Đạo Giáo


Lý Minh Tuấn


Đạo giáo là tiếng phổ thông của người Trung Hoa, chỉ thị một tôn giáo bắt nguồn từ bộ sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Lão Tử là một hiền triết, cho đến nay chưa ai có thể xác định được tiểu sử rõ rệt, bởi vì ông là một ẩn sĩ. Có học giả cho rằng ông lớn hơn Khổng Tử khoảng 20 tuổi, sống vào thời Xuân-Thu, đã từng giữ chức Thủ tàng thất (quản thủ thư viện) của nhà Chu. Một số nhà tân học Trung Hoa đầu thế kỷ 20 cho rằng ông sống vào thời Chiến Quốc, sau Khổng Tử cả 100 năm. Vì thế, chúng ta chỉ có thể đặt Lão Tử vào giai đoạn lịch sử trong khoảng từ giữa thời Xuân Thu tới cuối thời Chiến Quốc (từ cuối thế kỷ 6 đến cuối thế kỷ 3 trước Công Nguyên).

Đối với đại chúng, Lão Tử đã vượt khỏi nhân cách của một hiền triết để trở thành một vị đại tiên, trường sinh bất tử, sống trong cõi trời với danh hiệu Thái Thượng Lão Quân. Hiện nay, tại Thái Thanh cung, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) có đền thờ ông.

Trong danh từ Đạo Giáo, Đạo không có nghĩa là “đường lối”, mà Đạo là Thực Tại Tối Cao hay Thực Tại Tối Hậu (The Ultimate Reality), cội nguồn của vũ trụ vạn vật. Nếu chuyển sang ngôn ngữ Việt Nam, Đạo là Ông Trời. Lão Tử đã viết về Đạo rằng:

Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo, cưỡng chi vi danh viết Đại: thực thể tự thành không phân chia, sống trước trời đất. Im lặng thay, trống vắng thay, đứng một mình mà không thay đổi. Đi khắp mà không mỏi mệt có thể là Mẹ thiên hạ. Ta không biết tên thực thể đó, đặt tên cho là Đạo, gắng gượng gọi tên là Lớn”. (Đạo Đức Kinh, chương 25).

Tư tưởng của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh được trình bày bằng những câu rất ngắn gọn, bàn về những vấn đề siêu hình mà người thường không hiểu được. Vì thế, những khái niệm về dưỡng sinh, trường sinh cửu thị v.v… đã được các đạo sĩ vu thuật đời sau diễn ra những ý nghĩa thô thiển. Từ đây dẫn đến những phép thuật luyện đan, luyện khí để mong thành tiên. Cũng do đó, Đạo giáo được pha trộn với kỹ thuật phù thủy để chiêu hồn bằng phương thức lên đồng v.v… Ở Trung Hoa, vào những giai đoạn loạn lạc liên miên như thời Hậu Hán (Tam quốc), thời Ngụy Tấn, thời Lục Triều, Đạo giáo với những lễ nghi có tính mê tín dị đoan phát triển rất mạnh. Nổi nang nhất là giáo chủ Trương Giốc dưới thời các vua Hoàn đế, Linh đế nhà Hán. Trương Giốc qui tụ được rất đông tín đồ làm cho vua quan nhà Hán phải hoảng sợ; triều đình phải dốc toàn lực binh mã đánh dẹp và đã gọi nhóm này là “Loạn Khăn vàng”; bởi vì thủ lãnh Trương Giốc và các đạo hữu đều đội khăn vàng. (Xin xem: Le Taoisme et les religions Chinoises của Henri Maspéro; bản Việt dịch: Đạo giáo và các tôn giáo Trung quốc của Lê Diên, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội, năm 2000).

Tại Việt Nam, Đạo giáo không được truyền bá rõ rệt như Phật Giáo, không được chính thức giảng dạy như Nho Giáo; tuy nhiên những hình thức như lên đồng, phù thủy… lại rất phổ biến trong dân gian từ lâu. Nhiều khi những hình thức ấy lại được pha trộn vào những nghi thức tế cúng tổ tiên hoặc lễ cầu siêu cho người quá cố… Đó là hình thức Đạo giáo dân gian chịu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa.

Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ bàn tới chữ Nhân trong Đạo Giáo qua tác phẩm Đạo Đức Kinh của Lão Tử.

1. Chữ Nhân trong Đạo Đức Kinh

Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương, trong đó chỉ có 5 chương nói đến chữ Nhân; đó là: chương 5, chương 8, chương 18, chương 19 và chương 38. Trong những chương này, chữ Nhân có nghĩa là “yêu thương”; trong tiếng Việt, chữ Nhân thường nằm trong các từ: nhân ái, nhân từ, nhân nghĩa…

Ở chương 5, chữ Nhân nằm trong câu sau: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu: trời đất không yêu thương, coi vạn vật là chó rơm; thánh nhân không yêu thương, coi trăm họ là chó rơm”.

Chúng tôi nghĩ rằng câu này là một “ngụy văn” được ai đó cài đặt vào, không phải ý tưởng đích thực của Lão Tử; bởi vì nó mâu thuẫn với toàn bộ tư tưởng trong Đạo Đức Kinh! Nhất là nó mâu thuẫn với câu: “Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân, thường thiện cứu vật, cố vô khí vật: Vì vậy thánh nhân thường khéo cứu người, nên không có người nào bị bỏ, thường khéo cứu vật nên không có vật nào bị bỏ” (Đạo Đức Kinh, chương 27).

Ngoài ra, nó cũng mâu thuẫn với ý tưởng trong câu: “Thánh nhân bất tích, ký dĩ vị nhân kỷ dũ hữu, ký dĩ dữ nhân kỷ dũ đa: Thánh nhân không tích trữ, càng vì người, mình càng có thêm, càng cho người, mình càng nhiều thêm” (Đạo Đức Kinh, chương 81).

Do đó, chúng tôi cho rằng trong khi sao chép, ai đó trong phái Hình pháp đã xen vào sách Đạo Đức Kinh để biện minh cho hành động của phái mình. Phái Hình pháp hay còn gọi là Pháp gia, do những nhà chính trị như: Vệ Ưởng, Hàn Phi Tử, Lý Tư… chủ trương. Mấy nhân vật này sống vào thời Hậu Chiến Quốc, chủ trương dùng hình pháp khắc nghiệt để cai trị thiên hạ, cho nên đã đặt ra những hình luật nghiêm khắc nặng nề, sẵn sàng ra tay tàn sát dân chúng, nếu ai không chịu tuân theo và có hành vi phản kháng lại họ. Tiêu biểu nhất là Vệ Ưởng và Lý Tư đã dùng những biện pháp dã man để khống chế thiên hạ. Lý Tư trên cương vị Tể tướng nhà Tần đã khuyên Tần Thủy Hoàng thi hành chính sách “phần thư khanh nho” (đốt sách, chôn học trò) để bịt miệng các nho sĩ, không cho ai phê bình đường lối cai trị của nhà Tần. Rõ ràng những nhà chính trị này đã “coi trăm họ là chó rơm” (dĩ bách tính vi sô cẩu). “Chó rơm” là những con chó bằng rơm, dùng trong nghi lễ cúng tế thần linh; cúng xong rồi thì vất bỏ ngoài bãi rác hoặc dùng làm chất đốt. Ý tưởng “coi trăm họ là chó rơm” thuộc về phái Pháp gia, chứ không phải ý tưởng của hiền triết Lão Tử!

Vì vậy, chúng ta bỏ qua chữ Nhân trong chương 5 và chỉ xét tới chữ Nhân trong các chương 8, chương 18, chương 19 và chương 38.

Chương 8 nói về con người lý tưởng của Lão Tử như sau:

Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời, phù duy bất tranh cố vô vưu: người rất tốt lành giống như nước, nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành, ở cái nơi mà mọi người ghét, cho nên gần với Đạo. Ở thì khéo ở dưới đất, lòng thì khéo giống đầm sâu, giao thiệp thì khéo yêu thương (giữ lòng nhân), nói năng thì khéo giữ niềm tin, cai trị thì khéo sửa trị, làm việc thì khéo thể hiện tài năng, hành động thì khéo hợp thời. Ôi, chỉ vì không tranh giành, nên không bị oán trách”.

Chữ Nhân của Lão Tử ở đây tương đương với chữ Nhân trong Nho giáo. Trả lời cho Phàn Trì hỏi về chữ Nhân, Khổng Tử nói: “Ái nhân: yêu người.” Trả lời cho Trọng Cung hỏi về chữ Nhân, Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: điều mình không muốn đừng làm cho người” (Luận Ngữ: Nhan Uyên).

Đối với Đạo giáo của Lão Tử, lòng yêu thương (Nhân) hiện diện trong con người rất tốt lành. Người ấy có tính khiêm hạ, làm lợi cho mọi người không phân biệt, như nước làm lợi cho vạn vật. Vì khiêm hạ và quảng đại như đầm sâu, người ấy không tranh giành với ai, cho nên không bị ai oán trách. Do có lòng nhân trọn vẹn như thế, con người lý tưởng trong Đạo giáo gần gũi với Đạo (Thực tại tối hậu); nói theo ngôn ngữ tôn giáo, đó là gần gũi với Đấng Tối Cao.

Tuy nhiên, trong chương 18, Lão Tử lại viết: “Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa: Đạo lớn bị bỏ đi mới có nhân nghĩa”. “Nhân” là lòng yêu thương; “nghĩa” là sự cư xử tốt đẹp đối với tha nhân. Ở đây, Lão Tử cho rằng “nhân nghĩa” là thứ đức hạnh đến sau, sau khi Đạo lớn đã bị người ta bỏ quên. Tư tưởng Lão Tử còn đi xa hơn nữa khi ông nói trong chương 19: “Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ: Dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở lại thảo hiền.” Điều này có phải là Lão Tử đã tự mâu thuẫn với chính mình chăng?

Thưa không. Ông chỉ muốn nói rằng “nhân nghĩa” mà người đời ca ngợi, đạo Nho đề cao, chưa phải là đức hạnh tối cao đâu! Đó chỉ là thứ đức hạnh rất dễ bị giả mạo. Bởi vì “nhân nghĩa” có thể chỉ xuất hiện ở ngoài môi mép; đó là nhân nghĩa giả dối nếu thiếu Đạo là thực chất trong tâm, làm nền cho đạo đức chân thật.

Lão Tử phân tích rõ về điểm này trong chương 38:

Thượng nhân, vi chi nhi vô dĩ vi. Thượng nghĩa, vi chi nhi hữu dĩ vi: Nhân trên thì làm mà không lấy đó là làm. Nghĩa trên thì làm mà có lấy đó là làm.” Người ở bậc nhân trên làm mà không kể công, chẳng hề khoe khoang. Người ở bậc nghĩa trên làm mà đã có ít nhiều kể công và muốn khoe khoang cho mọi người biết. Như thế người có đức nghĩa đã suy kém hơn người có đức nhân. Dù sao “nhân nghĩa” ở đây vẫn đáng khen bởi vì không phải thứ nhân nghĩa giả dối. Tuy nhiên, theo Lão Tử, “nhân nghĩachân chính vẫn đứng sau “Đức”. Đức trong tư tưởng Lão Tử không phải là đức hạnh thông thường; Đức là hoạt lực của Đạo, là năng lực nâng đỡ, hỗ trợ vạn vật sau khi Đạo đã tác sinh. Lão Tử nói về Đức như sau: “Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi… thị vị Huyền Đức: Đạo sinh ra, Đức nuôi nấng, làm cho lớn đó, chăm chút đó… thế gọi là Đức huyền diệu” (Đạo Đức Kinh, chương 51).

Như thế, Lão Tử muốn con người lý tưởng không chỉ dừng lại ở đức Nhân, mà cần phải vượt trên đức Nhân, tiến tới trình độ của Đức và của Đạo. Người có Đức thể hiện hoạt lực của Đạo một cách tự nhiên, không cần đắn đo, không phân biệt đối tượng. Người có Đức hành động như bầu trời đổ mưa, như mặt trời tỏa ánh sáng cho tất cả mọi người không phân biệt người lành, kẻ dữ; trong khi, người có nhân nghĩa vẫn còn có sự phân biệt: người ta thường cư xử nhân nghĩa với người lành mà không nhân nghĩa với kẻ dữ.

Lão Tử nói rõ thêm: “Cố thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ: cho nên mất Đạo rồi sau là Đức, mất Đức rồi sau là nhân, mất nhân rồi sau là nghĩa, mất nghĩa rồi sau là lễ.” (Đạo Đức Kinh, chương 38).

Qua đây, Lão Tử đã sắp đặt một bậc thang giá trị cho đức hạnh của con người từ trên xuống dưới là: Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa, Lễ. Nhân, Nghĩa, Lễ có giá trị trong tương giao, cư xử nhưng dễ đi đến tình trạng giả nhân, giả nghĩa, giả lễ; đó là những hình thức che mắt thế gian để lừa lọc, thực hiện ý đồ đen tối.

Nói tóm lại, chữ Nhân trong Đạo giáo của Lão Tửgiá trị tốt đẹp, đáng quí nhưng vẫn được Lão Tử đặt ở mức thứ cấp. Tư tưởng Lão Tử muốn vươn tới mức giá trị cao cả nhất, đó là trở về với Đạo, có Đạo hiện diện nơi mình. Đó là lý tưởng mà ông đặt vào bậc “thánh nhân.”

2. Thánh nhân trong Đạo giáo

Theo quan niệm của Lão Tử, thánh nhân liên kết chặt chẽ với Đạo (Thực Tại tối hậu, Siêu Việt Thể). Vì nên một với Đạo cho nên thánh nhân hành động theo mẫu mực hành động của Đạo. Đạo của Lão Tử không phải là một khái niệm mơ hồ duy lý, cũng không phải là một thực thể chỉ có khả năng tác động, sinh hóa; mà Đạo là một thực tại có ngôi vị; nói theo ngôn ngữ tôn giáo, Đạo là một Đấng nhân lành, sẵn sàng cứu giúp, ban ơn cho người cầu xin, sẵn sàng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối. Lão Tử nói: “Đạo giả, vạn vật chi áo, thiện nhân chi bảo, bất thiện nhân chi sở bảo… Cổ chi sở dĩ quí thử Đạo giả hà? Bất viết: hữu cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quíĐạo là thực tại ẩn kín nhiệm mầu của vạn vật, là báu vật của người lành, là chỗ bảo vệ người chẳng lành… Người xưa sở dĩ quí Đạo là tại sao? Chẳng phải có lời nói rằng: có cầu thì được, có tội thì khỏi ư? Vậy nên trở thành của quí của thiên hạ.” (Đạo Đức Kinh, chương 62).

Trong toàn bộ tác phẩm Đạo Đức Kinh, thánh nhâncon người lý tưởng được nhắc tới trong 20 chương sách. Lão Tử mong mỏi thánh nhân được ở ngôi Vương giả cai trị thiên hạ theo mẫu mực của Đạo. Để đạt tới lý tưởngthánh nhân”, con người phải ôm giữ lấy Đạo. Lão Tử viết:

Thị dĩ thánh nhân bão Nhất, vi thiên hạ thức. Bất tự hiện cố minh, bất tự thị cố chương, bất tự phạt cố hữu công, bất tự căng cố trưởng: Vì vậy thánh nhân ôm giữ Một, làm khuôn mẫu cho thiên hạ. Không tự tỏ mình cho nên sáng, không tự nhận là phải cho nên rực rỡ, không tự kể công cho nên có công, không tự khoe mình cho nên đứng đầu.” (Đạo Đức Kinh: chương 22). Trong quan niệm của Lão Tử, Một là Đạo hay đại năng lực của Đạo. Thánh nhân ôm giữ lấy Đạo tức là bắt chước theo Đạo hoàn toàn. Đạo khiêm hạ, chịu đựng để phục vụ mọi người, thì thánh nhân cũng khiêm hạ, chịu đựng, phục vụ như thế. Vì khiêm hạ, thánh nhân để mình ra sau, để thân ra ngoài. Lão Tử nói: “Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn: thế nên thánh nhân để thân ở sau mà thân được ở trước, để thân ở ngoài mà thân được tồn tại” (Đạo Đức Kinh: chương 7). Để làm gương tránh sa đọa, trụy lạc, “thánh nhân bỏ cái quá, bỏ cái nhiều, bỏ cái vượt mức” (thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái. Đạo Đức Kinh: chương 29).

Bỏ cái quá” là bỏ tính ham của cải, tiện nghi vật chất. “Bỏ cái nhiều” là bỏ sự xa xỉ, phung phí. “Bỏ cái vượt mức” là bỏ tính đam mê, tính thích chinh phục, tính hiếu thắng. Nói khác đi: “thánh nhân dục bất dục, bất quí nan đắc chi hóa; học bất học, phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên nhi bất cảm vi: thánh nhân muốn không muốn, không quí của cải khó kiếm; học không học, đem chỗ quá mức của mọi người trở về, để giúp cho vạn vật được sống tự nhiên mà không dám can thiệp” (Đạo Đức Kinh: chương 64). “Muốn không muốn” nghĩa là không muốn thứ gì cho riêng mình, nhất là không quí của cải khó kiếm như vàng bạc, châu báu để nêu gương sống đơn sơ, thuần phác. Muốn vậy, thánh nhânhọc không học”, nghĩa là không học theo kiểu cách của người đời. Cái học của người đời thường chạy theo ngoại vật. Biết nhiều về ngoại vật thì tâm hồn trở nên phức tạp, bồn chồn lo lắng và bỏ xa Đạo. Xa Đạo thì phạm đến quyền lợi, hạnh phúc của người khác. Hành động của thánh nhân là hành động “vô vi”: “Thánh nhân xử vô vi chi sự: thánh nhân làm việc một cách vô vi” (Đạo Đức Kinh: chương 2). Vô vi là làm một cách tự nhiên như “tay trái làm mà không cho tay phải biết”. Hành động vô vi là hành động như Đạo: “Đạo thường vô vi nhi vô bất vi: Đạo thường hằng không làm, thế mà không phải chẳng làm gì.” (Đạo Đức Kinh: chương 37).

Tổng kết lại, Đạo giáo của Lão Tử đề cao chữ Nhân; thánh nhân, con người lý tưởng trong học thuyết Đạo Giáo khéo dùng lòng nhân cư xử với mọi người. Tuy nhiên, Đạo giáo còn nêu ra đích cao cả của bậc thánh nhân là Đạo. Thánh nhân là người vượt trên lòng nhân phổ thông để sống chan hòa, tự nhiên như Đạo (Đấng Tối Cao) để đem Đạo đến cho mọi người.

 

Xuân Trà, Đồng Nai ngày 03/02/2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16265)
Theo quan điểm của Đạo Phật, một người, một đối tượng hay ngay cả một thời điểm nào đấy được diễn tả như 'thiêng liêng' khi nó không bị nhơ uế hay nhiễm ô bởi tham lam...
(Xem: 14958)
Nếu có điều kiện, chùa cần phải hòa nhập với cảnh trí thiên nhiên. Vườn cảnh quanh chùa nếu khéo phối trí có thể làm tăng vẻ u nhàn, thanh thoát, trang nghiêmthiền vị.
(Xem: 17297)
Pháp thoại của HT Thích Nguyên Siêu với đề tài Duy Ma Cật vào lúc 6: 00 pm ngày Thứ năm 8/12/2011 cho Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp DŨNG và Cấp TẤN Hoa kỳ... Tâm Đăng
(Xem: 16890)
Tường thuật buổi giảng kinh Duy Ma Cật của HT Thích Nguyên Siêu cho huynh trưởng GĐPT cấp Tấn ngày 9/12/2011 - Tâm Minh
(Xem: 19700)
Thầy là tất cả như bông hoa cỏ nội mây ngàn, núi cao biển rộng hàm tàng đại thể như nhiên...
(Xem: 15070)
Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung...
(Xem: 16096)
Tỉnh! Trong thiền thất của vị sư già, tỉnh! Tỉnh như ngọn đèn dầu yên tỉnh. Sáng mà không lay. Cháy mà không chao động... Nguyên Siêu
(Xem: 14038)
Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người.
(Xem: 12745)
Những sự vật đều nằm trong tiến trình của sự trở thành để rồi tan rã. Như thế một vật có tính chất tạm thời thì không thể cho chúng ta hạnh phúc thật sự...
(Xem: 12836)
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm...
(Xem: 12496)
Chúng ta đến đây là tiếp xúc cho được với niềm vui và nỗi buồn của một triều đại, của một ông vua, để từ đó có thể tiếp xúc được với niềm vui, nỗi buồn của chính mình trong kiếp sống con người này.
(Xem: 13486)
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc nhau...
(Xem: 13691)
Bên trời sương mù đã tan hẳn. Vầng thái dương ẩn hiện sau áng mây thua, chiếu ánh sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh...
(Xem: 13906)
Bước đi trong chánh niệm, chúng ta sẽ tiếp xúc được những sự màu nhiệm của cuộc sống. Từng bước chân thiền hành đã cho tôi tiếp xúc được với đất trời vào Thu...
(Xem: 14283)
Ngày xưa, thuở đức Phật còn tại thế, một hôm có người mẹ ôm xác con tìm đến đức Phật để khóc lóc và xin cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết...
(Xem: 12672)
Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật...
(Xem: 13822)
Sau khi kính cẩn chắp tay hình búp sen, tôi quyết định chụp một tấm hình bên cạnh Đức Phật Như Lai. Và cùng với đó là ước nguyện nụ cười luôn nở trên môi mình...
(Xem: 13839)
Hôm nay theo thứ lớp khất thực Ðạo sĩ A La phải đặt chân vào một chiếc cổng cổ kính, nhưng không kém phần tráng lệ và mỹ thuật của một thương gia...
(Xem: 13714)
Con người không nên đổ thừa hoàn cảnh, mà phải có cuộc cách mạng tinh thần phổ cập trong xã hội với giá trị đạo đức Phật giáo để tháo những gỡ vướng mắc trong đời sống hiện tại.
(Xem: 13386)
Ngày mùa đông chúng tôi rủ nhau ra khu rừng chồi nho nhỏ cạnh khu nhà ở mướn của chúng tôi để hái hoa, hái trái dại về cắm bình hoa nhỏ...
(Xem: 16028)
Khi còn đi học, anh nghe chuyện kể rằng: Có nhà thám hiểm đi lạc vào bộ lạc của tộc người hung dữ. Người tù trưởng muốn mượn cớ giết anh để tỏ rõ sự khôn ngoan trước bộ tộc.
(Xem: 16121)
Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải ngoại - HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 13841)
Xây dựngcủng cố một dòng chính văn hóa để đất nước tiến lên mà không mất gốc không hỗn loạn, đẹp mà dễ thương đó cũng là trách nhiệm của trí thức đương thời.
(Xem: 16771)
Đám lá dừa bắt đầu xào xạc, mùi mưa ẩm ướt xộc vào nhà qua mấy cánh cửa đang mở toan hoang. Tiếng mưa rào rào to dần như đã đến ngay cạnh bờ mương...
(Xem: 14341)
Sự bình an trong đời sống chưa bao giờ bỏ rơi người. Nó chỉ bị che lấp bởi những điều vụn vặt tầm thường. Để tìm lại sự bình an đó, người phải lau rửa, dọn dẹp lại bên trong người.
(Xem: 13060)
Cuộc đời ba trải dài theo năm tháng với bao biến cố bởi sóng gió cuộc đời; như dòng sông quê mình quanh co, uốn lượn mà mỗi khúc sông là một dòng chảy khác nhau...
(Xem: 13497)
Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la.
(Xem: 13456)
Con mèo mù nhìn là động lòng thương tâm, trắc ẩn! Gương mặt non nớt yếu ớt với hai hốc mắt dính lại, đi đứng liêu xiêu. Mỗi lần cho ăn, mình phải bế nó để lên bàn...
(Xem: 17565)
"Cái kiếp con người: Sinh lụy tử". Đó là điều chắc chắn. Nước mắt đã nhỏ xuống quá nhiều cho cái vòng tròn khép kín này.
(Xem: 13205)
Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hoá.
(Xem: 13978)
Nếu mai là ngày cuối của cuộc đời tôi sẽ nói với bạn hãy nhìn tôi mà chiêm nghiệm và suy ngẫm một chút về cuộc đời này nhé, bạn ơi! Hãy sống có ích cho chính bản thân mình...
(Xem: 12602)
Sư ông bảo rằng: “Tiếng chuông đại hồng ngân lên không phải chỉ có chúng ta nghe được mà chư vị Bồ tát, Hộ pháp cũng đều nghe thấy. Tiếng chuôngcông năng siêu thoát...
(Xem: 12537)
Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lý giác ngộ thì dễ thực hành tự tri...
(Xem: 12786)
Cảm khái từ một bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, Paul và gia đình vận động mọi người ngày thứ Hai không dùng thịt, như là một phương cách làm chậm lại sự biến đổi của khí hậu.
(Xem: 12996)
Dù là một kẻ ăn mày, những kẻ hèn mạc thấp nhất trong xã hội thì họ cũng có quyền sống và khao khát được sống. Ai tước đoạt quyền ấy của họ thì cũng có ngày sẽ phải trả giá...
(Xem: 15416)
Mỗi đêm trong sự thực tập Phật Giáo của tôi, tôi cho và nhận. Tôi nhận sự nghi ngờ của người Trung Cộng. Tôi tặng lại niềm tintừ bi.
(Xem: 15196)
Hãy quán hơi thở! Hơi thở luôn ở đây cùng chúng ta. Đức Phật đã dạy chúng ta thực hành thiền định về hơi thở, điều này cũng rất hữu ích như thiền định về chánh niệm.
(Xem: 13520)
Con về ngồi bên chân mẹ ngắm nhìn đôi chân xưa nhiều năm tất bật với đôi dép nhựa quanh năm. Bàn chân nứt nẻ đau rát mà mẹ đâu quản.
(Xem: 12892)
Đức Phật vì lòng thương con người nên chỉ rõ con đường Chân thật, tìm lại tâm mình trong những sóng gió khổ đau, biến đổi, mà tìm thấy được Chân thường trong Vô thường...
(Xem: 14290)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 14586)
Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biếtthương yêu là điều rất quan trọng.
(Xem: 13021)
Đời sống không chỉ là bung ra, thổi tốc mảnh tâm, đi truy tìm tự ngã trong một chốn sơn khê nào đó, hay trong những đô thị sầm uất, trong một cõi hoang vu...
(Xem: 12301)
Cái tạo nên giá trị làm người ở trong xã hội là nhân cách. Có nhân cách lớn (nhân cách tự-do-tinh-thần) là do có trí-tuệ-nhân-văn cao, có trí-lương-tri trong sáng...
(Xem: 13804)
Giữa đô thị ồn àophồn hoa, giữa nhịp sống náo nhiệt và vội vã, ta đi tìm riêng một khoảng lặng bình yên...
(Xem: 15126)
Với Phật giáo, sự hình thành và tồn tại của mỗi sự vật hay hiện tượng đều do nhân duyên. Duyên hợp thì sự thành, duyên tán thì sự tan.
(Xem: 21438)
Là một người Phật tử, Steve Jobs đã rất tinh tế khi sống lời Đức Phật dạy bằng cách cố vượt ra khỏi sự bức bách của tám nhân duyên ám ảnh trần thế...
(Xem: 14612)
Mặc dù thiền định là kỷ luật tôn giáo chính được thực hành bởi các Phật tử gốc Mỹ, nghi thức tụng niệm là một phần quan trọng của nhiều cơ sở thiền định.
(Xem: 14898)
Cần phảisức mạnh để nhận thức rằng chính nỗi sợ hãi và sự vị kỷ mới gây ra tức giận. Và cần phải có kỷ luật để thiền định về ngọn lửa đang hừng hực cháy của lòng sân hận.
(Xem: 13880)
Đã mấy mùa Xuân đi qua, mùa Thu trở lại, dòng đời vẫn trôi chảy, mây vẫn bay, nước vẫn thì thầm với rừng núi và cỏ cây… HT Thích Như Điển
(Xem: 16762)
Đẹp đến nao lòng, khi trong tiết tháng Bảy mưa phùn giăng nhẹ, và bất chợt nở nghiêng giàn những chùm hoa mướp cong cong. Thắt the và tươi mới. Nôn nao và tha thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant