Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thơ - Thiền, Những Đường Bay Và Những Chân Trời

02 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9784)
Thơ - Thiền, Những Đường Bay Và Những Chân Trời

Thơ - Thiền
Những Đường Bay Và Những Chân Trời



sen11Hôm Tết 2006, Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy từ Hà Nội vào, ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú. Cái đặc thù ở đây là anh đã đào xới những vỉa quặng ngầm, chưa có hoặc ít có người khám phá: Cái mặt tĩnh của tư duy, cái lẩn khuất của nội tâm triết học... mà chúng thì thường lặn chìm, vô tăm, khiêm hư trước mọi biến động của thời cuộc. Ít khi mà đọc được một quyển sách hay. Tôi đọc giữa hai hàng chữ và cảm nhận được rằng: Có những con người đã có những chân trời của tự do, của sáng tạọ, của khát vọng sự thật và họ yêu mến cái đẹp đến vô bờ! Tuy thế, tôi lại thích cái tựa sách hơn: “Chân trời có người bay”. Cái tựa này, anh Thúy lại lấy ý từ câu thơ cô đơn, hiu hắt, thấm đẫm chất nhân văn của nhà thơ Trần Dần:

-“Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời”
quả thật, đã có thời, có những chân trời không có người bay! Và quả thật, đã có thời, có những người bay nhưng không có chân trời!
Nghĩ về thơ, nghĩ về thiền - hốt nhiên, tôi cũng nghĩ đến những đường bay như Nhà thơ Trần Dần, như Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy - nhưng là những đường bay không biết có chân trời nào hay không?

I.- Đường bay của thơ:

Thơ Việt Nam kể từ thời Lý Trần, nhiều học giả đã xác định là đỉnh cao của văn học hoặc là ngọn đuốc sáng mở đường cho thời đại tự chủ của dân tộc. Tự bản chất, nó là dòng hợp lưu: Minh triết đông phương và bản sắc văn hóa Việt. Và suốt trong dòng chảy ấy, trải qua hơn ngàn năm, Phật Khổng Lão và tình tự dân tộc đã hỗn dung và quyện lẫn trong nhau. Và thế là có cái đúng, có cái sai; có cái bình dân hóa, có cái tan hòa với tín ngưỡng dân gian. Thơ ca vào các thời kỳ này, tuy chỉ lập ngôn dị giản như: “Văn dĩ tải đạo” hoặc “Thi ngôn kỳ chí”... nhưng chúng đã hướng đến những giá trị phổ quát, đáp ứng được những khát vọng, những cảm xúc thăng hoa tâm hồn cho nhiều thế hệ. Chúng ta không cần dài dòng nói đến những ích dụng đó như thế nào, vì rõ ràng những nền tảng tư tưởng từ hình nhi thượng đến hình nhi hạ của Phật Khổng Lão đã được chiết trung, tinh lọc, biến cải cho phù hợp với bản sắc văn hóa Việt. Và như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ thơ vào các thời kỳ này có định hướng. Có định hướng tất có đường bay. Các giá trị tại thế, nhân văn, mỹ học... theo đó, chẳng có gì phải bàn luận nhiều, nhất là thi ca.

Mãi cho đến khi tiếp thu nền học thuật của phương Tây thì diện mạo thơ Việt mới bắt đầu đổi khác. Các trường phái lãng mạn, ấn tượng, tượng trưng, siêu thực... như những ngọn gió lạ thổi qua bình nguyên yên ả của tâm linh thơ Việt. Cổ súy cho phong trào thơ mới là Phan Khôi với bài thơ “Tình già”, được coi là sớm nhất. Sau đó, các thanh niên thi sĩ tân học, với sinh lực trẻ trung lần lượt xung trận như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Trương Tửu... đã trình diện thi đàn những bài thơ đi ra ngoài truyền thống, thoát ly vóc dáng cổ điển. Vì mới thể nghiệm nên không tránh khỏi “Tây quá” hoặc “hoa lẫn với rác” nhưng lại thích hợp với xu thế tâm hồn lớp trẻ hãnh tiến của thời đại.

Đi theo phong trào cải cách, canh tân này có thể lên đến con số 80 tác giả, trong đó, số nữ lưu anh kiệt như Ngân Giang, Anh Thơ, Mộng Tuyết, Hằng Phương... có chừng trên dưới 10 người. (1)

Họ kết án thơ cũ với vần, đối, niêm, luật gò bó, chật chội, không thể đáp ứng nổi những tư duy, tâm tình, cảm xúc đa phức trước trào lưu mới. Một phần nào đó họ có lý. Họ có lý nên họ đã thành công. Tuy nhiên, nếu “hiện đại chủ nghĩa” quá, nghĩa là tượng trưng và siêu thực quá như nhóm “Xuân thu nhã tập” của Nguyễn Xuân Sanh... thì thất bại. Phá bỏ vần luật, niêm đối để cho thơ chắp cánh tự do, phiêu bồng bay, thênh thang bay trong không gian nghệ thuật với hình tượng, tu từ mới mẻ thì thơ sẽ tăng trọng cảm xúc, lung linh nhiều vẻ đẹp, ẩn mật, đa tầng và đa nghĩa hơn thì khả thủ. Nhưng chủ trương phá bỏ ý thức, phá bỏ cả quy tắc ngữ pháp, phá bỏ những thông tin thường ngữ, thường nghĩa... thì chỉ còn cái vỏ âm thanh khô rỗng, ú ớ, bập bẹ, phều phào... chẳng rõ trao gởi thông tin gì! Sự mã hóa ngôn ngữ ấy như là ẩn số bí hiểm, mà đôi khi chính tác giả cũng quên, không biết mình nói gì! May ra chỉ có Thượng đế mới hiểu. (2)

Những thi gia kiện tướng như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng... mãi cho đến tận bây giờ, công phu tế bào não “rất nghiêm túc” của họ vẫn chưa đến được với tâm hồn người đọc, nếu không muốn nói là tạo nên một không gian dị ứng . Như vậy, loại thơ “hiện đại chủ nghĩa” này có chân trời nào để bay không? Hay là không có chân trời mà vẫn bay? Và đường bay này cũng đã được mã hóa trong cơn mê man bội thực hoặc èo uột, thiếu ăn của các con chữ? Cho nên, đã rất nhiều người phê phán loại thơ này một cách gay gắt, không khoan nhượng tí nào. Ví như có người đã bực bội hạ bút: “Đó chỉ là các chuỗi kết hợp từ gần như vô thức, thể hiện sự lao động thiếu nghiêm túc của người cầm bút. Chẳng những nó là kết quả của sự nghèo nàn về vốn từ ngữ dân tộc ở một số tác giả mà còn là những dấu hiệu của một bệnh trạng tư duy. Đọc những câu thơ ấy, người đọc chỉ thấy đó là một mớ hổ lốn ngôn từ không có giá trị biểu đạt tư tưởng- tức là sự nhận biếtkhám phá bản chất của sự vật, hiện tượng thuộc thế giới xung quanh. Bản chất của hiện tượng thơ này hoàn toàn xa lạ với sáng tạo nghệ thuật đích thực. Nó chỉ tác hại và làm vẩn đục ngôn ngữ, làm méo mó tư duy của người Việt hiện đại mà thôi.[1]”

Không biết nói như thế có hơi quá hay không? Có hơi quy phạm, hàn lâm hoặc mẫu mực quá hay không? Ta hãy chờ xem!

Sau Cách Mạng Tháng Tám, do hoàn cảnh lịch sử, ở miền Bắc, đa phần các nhà thơ đều phải ra mặt trận bằng cách này hay bằng cách khác, thơ mới vẫn âm thâm tồn tại bên lề dòng văn học chính thống, còn thơ phục vụ chiến đấu thì có định hướng rõ ràng. Các thế hệ trong thời chiến tranh Pháp, Mỹ đã xuất sinh một số lượng lớn các nhà thơ có tên tuổi đã được định hình vững chắc, làm đà cho thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa, bước lên thi đàn một cách tự tin và đầy hào hứng. Vậy là một thời gian không dài lắm, chỉ mới 30 năm (từ 45-75) thơ vẫn có đường bay, bay theo cao trào của lịch sử. Những loại thơ trữ tình, lãng mạn hoặc của các trường phái thơ mới khác dường như không có môi trường để góp mặt một cách chính quy trên thi đàn, nhưng chúng vẫn an nhiên tồn tại như những tảng băng ngầm. Ví như Giang Nam, Hữu Loan, Hoàng Cầm...

Cũng vào lúc này, nhất là sau khi chia cắt đất nước, tình trạng thơ ở miền Nam vẫn tiếp tục đi theo phong trào thơ mới, lại có vẻ muốn mới hơn cả thế hệ Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Xuân Diệu... Chính nhóm “Sáng tạo” của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa... đã cổ suý cho phong trào nầy.

Tuy nhiên, đấy chỉ là bước đi tiếp theo trên lộ trình có sẵn; dẫu với tuyên ngôn tự do, sáng tạo, hiện đại... họ vẫn ảnh hưởng nặng nề các trường phái lạc hậu của Tây phương đã không còn thời thượng nữa. Sự tìm kiếm khổ hạnh trên từng con chữ của họ là một nỗ lực đáng khen ngợi, nhưng dường như cũng chỉ là sự dò đường, thử nghiệm theo những vết chân đã cũ, sau đó là bị chìm khuất, vô tích...

Có những nhà thơ độc lập, không có “tuyên ngôn chính quy” như nhóm Sáng tạo; họ không đi theo ai, vững vàng trung thành với Nàng Thơ của mình; không nói cũ, không nói mới... như Bùi Giáng, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương...; mỗi người mỗi dáng vẻ, mỗi phong cách, một thế giới riêng không lẫn với ai được. Và kế tiếp sau đó, còn rất nhiều, rất nhiều nữa, như Phạm Công Thiện, Phạm Thiên Thư... mỗi người là một cõi riêng, nếu ta có dịp khám phá, thăm dò một cách khách quan và trung thực.

Nói tóm lại, tình trạng thơ ở đây vẫn là cái trăn trở muôn thuở giữa hiện thực nhân sinh trần trụi và những khát vọng bản thể siêu hình. Hoang mang giữa binh lửa, bất an trong lối thoát, thơ như tiếng gọi kêu bỏng cháy trước sa mạc cằn khô và nhức đau của hiện tồn. Và cũng có kẻ muốn vi vút rong chơi giữa cát bụi cuộc lữ, hoặc bi tráng, hoặc đam mê tình lụy trước hố thăm trần mộng bất khả... Như vậy, ta có thể kết luận mà không ngại võ đoán và vội vã, là thơ miền Nam chưa có đường bay rõ ràng hoặc phiêu phất và tản mạn nhiều hướng. Cái gọi là “vị nghệ thuật hay vị nhân sinh”, dầu sao, chỉ còn là “chuyện cổ tích” của một thời. Ai sao cũng được. Hơi đâu mà xác định cho đường bay của thơ. Ngoại trừ một số thơ lai căng, nô lệ cho thế lực nào đó hoặc thơ tối tăm, hiện sinhhư vô; trên thi đàn vẫn có nhiều nhà thơ định hình, sáng giá và sống lâu...Cái đẹp vẫn hiện hữu. Thơ vẫn là món ăn tinh thần cao sang của xã hội, không chỉ là sản phẩm độc quyền của nhóm “Trung tâm văn bút” do chính quyền bảo trợ.

Còn hiện nay? Quả thật là khó nói. “Thơ”- trong ngoặc kép - xuất hiện như rác giữa chợ chiều. Nhan nhãn thơ. Ngồn ngộn thơ. Phồn thực thơ... Dường như có một số nhà thơ trẻ muốn đánh đố độc giả nên đã cố ý bí hiểm, thiếu nghiêm túc và thiếu kiến thức ngữ pháp căn bản khi sử dụng con chữ, coi thường tinh hoa trong sáng của ngôn ngữ Việt. Rất nhiều bài thơ với những vỏ âm thanh lắp ghép, biến tấu rối mù, thông tin ngữ nghĩa được đóng bít, giấu kín... Do biến động của nền kinh tế thị trường và sự giao lưu phồn tạp của các luồng văn hóa - kể cả phi văn hóa - thơ dường như được tiếp thêm nhiên liệu và sức sống bản năng nên nó thay vỏ rất nhanh để bắt kịp với các trào lưu hiện đại. Họ sợ bị tụt hậu. Thế là giữa đống thơ ngổn ngang, rời rạc các con chữ là hình ảnh đứt khúc của cảm xúc, câu cú, ý tưởng... nhảy múa trong một vũ điệu loạn cuồng; hời hợt, nông nổi, thiếu vắng chiều sâu văn hóa và thiếu cả sự tỉnh táo trí thức nữa.

Tuy nhiên, nếu lớp trẻ thiếu tỉnh táo thì người già phải tỉnh táo. Tỉnh táo để thấy rằng, hiện tượng khác với bản chất. Sự tìm kiếm, dò đường ấy là cần thiết. Sự trở trăn, vật vã ấy là cần thiết. Sự rối mù, loạn xà ngầu ấy là cần thiết. Sự thai nghén nào cũng quằn quại tâm sinh lý. Sáng tạo không bao giở là cái tĩnh chỉ, bất động. Những hiện tượng bất ổn, rối ren của “thơ mới” như hậu hiện đại hoặc tân hình thức trên một số sách báo hiện nay – và cả nước ngoài - là dấu hiệu đáng mừng để chuẩn bị cho một cuộc lột xác ngoạn mục. Vấn đềthời gian. Các giá trị thẩm mỹ, trong bản chất, chúng sẽ tự sàng lọc, tinh chế để đáp ứng cho nhu cầu mến yêu vốn rất quý pháithanh khiết của tâm linh thơ. Các nhà phê bình văn học phải có cái tâm mát mẻrộng rãi, phải có cái trí nhìn xuyên qua hiện tượng để tiếp cận cái bản chất. Nên hướng dẫn dư luận thẫm mỹ hơn là đả kích hiện tượng xã hội. Bởi dù sao nó cũng chỉ là hiện tượng xã hội, luôn luôn nhấp nhô, chìm nổi, xáo trộn để tìm sự quân bình. Rồi những cái “không phải thơ” sẽ tự động đào thải hoặc rút lui vô điều kiện.

Tôi có đọc được một số tác phẩm của một số nhà thơ trẻ, không nhiều lắm, được giải thưởng của Hội Nhà Văn chừng hơn mươi năm về trước như Trương Nam Hương, Nguyễn Quang Thiều... Thơ họ có dáng vẻ mới mẻ của ngôn ngữ, của cấu trúc, của tu từ và hình tượng nghệ thuật nên đã phát lộ được nhiều tầng tư duycảm xúc. Trong chừng mực nào đó, họ đã lao động nghiêm túc, có sở học và họ biết rõ mình trao gởi thông điệp gì. Cái mới ở nơi họ chỉ là sự kế thừa, tiếp sinh lực cho truyền thống, cũng từ một dòng chảy nhưng qua một khúc quanh khác gồ ghề, lồi lõm hơn mà thôi. Đẹp, hay, chưa dám quyết nhưng còn tồn tại trong lòng độc giả. Lại có một số nhà thơ trẻ khác nữa mà các tạp chí hay nhắc đến như Văn Cầm Hải, Ly Huyền Ly, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư... cũng được độc giả chú ý, khen chê bất đồng. Điều ấy có lẽ đúng do diện mạo thẩm mỹ ở nơi thơ họ chưa được định hình, còn có đâu đó một số sạn sỏi va động lạo xạo khó hiểu... nhưng dầu sao đã có nét riêng. Tuổi trẻ cố tạo phong cách cho mình thường vấp váp điều đó. Tuy nhiên, ta hãy chịu khó đọc lướt qua và nắm bắt cho được linh hồn của ký hiệu - những thông tin ở ngoài con chữ - ta sẽ hiểu họ nói gì. Với điều kiện, tế bào não của ta cũng phải được trẻ hóa hoặc thoát ly khỏi phạm trù của những hình tượng cũ, khái niệm cũ đã ám khói quá lâu trong tâm thức của lớp thế hệ “ nhĩ thuận” trở lên.

Tuy nhiên, thời gian mới là bậc thầy thẩm định uyên bácchín chắn nhất. Sự khen chê hiện nay trên thi đàn đa phần là do những nhận xét nóng vội, hấp tấp, thiếu sự chững chạc trí thức hoặc do cảm tính bọt bèo của lớp trẻ đồng lứa; các nhà phê bình học thuật khôn ngoan, già dặn họ chưa “phán” vội. Khó lắm! Tập thơ “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh bị Tô Hoài chê là: “Một gánh đồng nát của các con chữ”; nhưng lại được Trần Mạnh Hảo ca tụng hết lời. Tập thơ của Nguyễn Quang Thiều được giải nhưng lại bị Trần Mạnh Hảo đập cho tả tơi! Thế đó.

Vậy thì hiện nay, thơ mới đã có đường bay hay chưa? Rõ ràng là những cánh chim thơ đang bay luẩn quẩn loanh quanh hoặc đang thăm dò trời cao bể rộng thế nào. Một thi pháp học cho thơ mới, một chân trời mới cho thơ mới đang còn dưới dạng bản thảo. Chúng ta có thể ngồi tĩnh tọaan nhiên chờ đợi, chắc chắn sẽ uống được một chung trà ngon được ướp sương mai và nắng sớm.

II- Đường bay của thơ, thiền và thơ thiền:

Có người nói thơ rất gần với thiền. Thơ có đường bay thì thiền cũng phải có đường bay.

Thơ bay vi vút trong không gian thẫm mỹ ước lệ. Thiền bay thênh thang trong cõi tĩnh mặc, trong sáng và vô duy. Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý tượng; lung linh đa chiều tư duycảm xúc. Thiền là tinh hoa của minh triết đông phương, của Phật; là đóa trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để tao ngộ với quê hương sơ thủy. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bại, là giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư, cô đơn nhưng lại xa rộng khôn cùng. Nó còn muốn nhảy vào cả hố thẳm vô thức câm nín nữa. Thiền là miền đất bên kia, thuộc lãnh địa của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý trí tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa sinh ra đời. Thơ thuộc về những tế bào nhạy bén của tim và của óc. Thiền thuộc về con mắt xanh của tâm và tuệ, là cõi thanh trong, vô nhiễm của kiến tri, không lây uế bản năng lông lá thuở sơ khai...

Vậy xin ai đó đừng đánh đồng giữa thơ và thiền. Giữa giấc mộng vừa miên man vừa đa sự của thơ và giữa ngôn ngữ tỉnh thức, giác ngộ của thiền không liên hệvới nhau. Nó còn cách nhau nhiều cánh cửa, đôi khi chỉ một sợi tóc cũng khó nhìn ra chân tướng. Tuy nhiên, có điều thật kỳ lạ là có thơ của nhiều tác giả cũ và mới rất giống thiền. Và trong những trường hợp như thế ta có thể coi là thơ thiền được không?

Ta có thể đọc một số câu rồi lắng tâm mà nghe thử:

“- Với tay chạm khẽ vào hư ảo
Đánh thức hồn ta tiếng nguyệt vang”
 (Ngọc Quế)
“- Thì xin hạt cát làm tâm ngọc
Đau đớn vo tròn một kiếp trai”
 (Thạch Văn Thâu)

Đấy, nó có khác gì thơ thiền đâu? Phải nhìn thấy “khổ đế”của trần gian, phải lịch trải trong cuộc tồn sinh, phải bị đoanh vây giữa muôn trùng hư vôảo ảnh... mới thai nghén được những câu thơ rất gần với thiền như vậy.

 Nếu chịu khó sưu tầm trong kho tàng thi ca thơ Việt thì thơ giống thiền như thế có thể là cả một tập sách dày. Vậy thì thơ giống thiền và thơ thiền thật sự khác nhau ra sao? Đây là cả một công trình sưu khảo dài hơi và đầy tâm huyết của các nhà nghiên cứu chuyên môn. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, ta có thể phân chia thành hai không gianKhông gian ở tầng bậc ý thức, lý tính và coi đây là cõi miền của thơ có tư tưởng thiền; không gian thứ hai ở tầng bậc trực giác, tức là cảm quan thấy ngay thực tại, chưa qua sự chế biến của các ý niệm chủ quan – và đây chính là thực địa, là quê hương của thơ thiền.

Bây giờ ta hãy làm một cuộc hành trình khám phá chân diện mục của chúng ra sao! 

1- Không giantư tưởng thiền:

Không gian này thật là mênh mông, vô lượng. Và dường như, khắp nơi, khi nói đến thơ thiền thì chúng đều ở trong phạm vi hoạt dụng của ý thức, tức là thuộc không giantư tưởng thiền. Đại lược, những bài thơ có tư tưởng thiền thường có những nội dung như sau:

- Có tư tưởng Phật học, thiền học...

- Có những tình cảm thanh cao, thoát tục...

- Yêu cảnh vắng lặng, u tĩnh, thanh bình, nhẹ nhàng, trong sáng, nhàn thoát...

- Yêu các giá trị xuất thế như niết-bàn, vô vi, giải thoát nhưng diễn đạt chúng bằng lý trí, bằng tư duy khái niệm...

 - Yêu các giá trị tại thế như từ bi hỷ xả nhưng thường sử dụng công cụ tư tưởng để tỏ bày, lý giải, chứng minh...

- Kinh qua sự lịch trải, chiêm nghiệm trên đường đời nên có những nhận thức, cảm xúc rất gần với Phật giáo.

- Cái nhìn về sự thật, lẽ phải, tình thương chung một dòng đạo lý Đông phương...

Từ cái thước đo ấy, hàm lượng ấy, lạ lùng làm sao, những bài thơ của các vị thiền sư Lý, Trần đa phần chúng đều thuộc về không gian này, tức là những bài thơ có tư tưởng thiền chứ - chưa xét thơ thiền!

Giá trị của những bài thơ có tư tưởng thiền này đã vượt không thời gian, đã bất tử. Cả ngàn năm nay, lịch sử văn học thiền đã xem là đỉnh cao của trí tuệ (Đạo Hạnh), là cảm hứng siêu thoát, buốt lạnh cả hư vô (Không Lộ), là thông điệp của mùa xuân vĩnh cửu (Mãn Giác), là triết lý hành động giữa cõi vô thường, có không, sinh diệt (Vạn Hạnh)... Đến đây, ta có thể thấy chúng tương cận với thơ của “người đời”dẫn lược ở trên xiết bao? Chỉ có một chút khác biệt, là nhờ các vị thiền sự sống thiền nên tư tưởng thơ thiền của họ lạc quan hơn, tiêu sái và an nhiên hơn.

Trong kho tàng văn học thiền từ xưa đến nay đa phần là thơ có tư tưởng thiền, hiếm có thơ thiền. Rồi chúng ta sẽ nói rõ về điều ấy.

2- Không gian thơ thiền:

không gian của trực giác, là thế giới của tỉnh thức hiện tiền. Đây là miền đất thuộc thẩm quyền của tuệ giác, với tâm thái vô duy để chụp bắt và nhìn ngắm rỗng rang cái-đang-là, chưa qua sự chế biến của tình cảm, quan niệm, tư kiến chủ quan.

Hiện nay, không gian này rất thưa vắng gót chân thơ. Chính những triết lý cao siêu, những lý giải bác học, những ý tưởng thâm thúy, những hình tượng mỹ học diễm lệ... đã đóng bít cánh cửa này. Vả chăng, không phải nhà thơ nào cũng có đủ kích thước tâm linh để dạo chơi không gian này - là thế giới mà dường như cái lấp lánh của ngôn ngữ, cái lung linh của những hình tượng nghệ thuật chẳng có đất dụng võ. Đây là thế giới của khách quan, lạnh lùng, vô cảm... Nó chẳng hay, chẳng đẹp, chẳng nghệ thuật, chẳng mỹ học, chẳng nhân bản, nhân văn, nhân tình gì cả! Ai cũng “tưởng” là vậy!

Xin giới thiệu một số bài thơ ở không gian thiền này:

“- Cái ao xưa
Ếch nhảy vào
Tiếng nước xao”
 (Basho)

Cái ao xưa là cái ao cũ, thế thôi. Nó chẳng phải là cố quận, là quê hương sơ thủy, là bản lai diện mục gì cả. Đừng khoác cho nó một ý nghĩa, một giá trị, một tư tưởng thâm thúy, ẩn mật nào. Nhân sinh đã từng thông khổ, điêu đứng, lầm than bởi những ý nghĩa, giá trị ước lệ, phù phiếm và rỗng không ấy quá nhiều rồi. Vả chăng, chúng là những nhãn hiệu trá hình, tạo nên tương tranh và xung đột. Thiền chụp bắt trong sáng, vô duy, trực đối thực tại, giải thoát toàn mãn mọi tri kiến. Đừng khoác cho nó một hào quang, một vương miện quý phái nào. Con ếch nhảy và tiếng nước xao là hình ảnh, là âm thanh nhân quả hiện tiền. Là cái đang là sống động, chân thực, hiện tồn và mới mẻ.

Ta hãy đọc thêm bài khác:

“- Ta nhìn sâu xa
Dưa nằm trong cỏ
Dấu mấy nụ hoa”.
 ( Basho)

Nhìn sâu xa là cái nhìn của thiền. Một cái nhìn lắng đọng, thông đạt, trong suốt, không mổ xẻ, phân tích, suy diễn lung tung. Dưa nằm trong cỏ, dấu mấy nụ hoa. Thế thôi. Cái đẹp bình dị, ẩn dật, khiêm tốn ấy chúng luôn có sẵn xung quanh ta, nhưng không phải ai cũng thấy được. Thế gian thường nhìn thấy những hình danh, sắc tướng... những biến hóa hư ảo cùng những đối tượng mê ly, hấp dẫn vị dục kia!

Một bài khác:

“- Gió lay bụi trúc vàng
Bên thềm hoa nắng vỡ
Ô kìa! Giàn phong lan
Một nụ hoa mới nở”
 (Viên Minh)

Thiền là thấy ngay, chụp bắt ngay cái thế giới đang là, sống động: Đang lay, đang vỡ, đang nở...

Mọi sự, mọi vật, mọi hiện tượng, tâm hay cảnh... luôn đang trôi chảy, dịch hóa, không có gì có thể tĩnh chỉ, bất động được. Tất cả đang chuyển động, biến đổi dù một sát-na, một hạt bụi. Chúng luôn luôn “tương động”.

Lại có những câu thơ rất giản dị, nhìn thấy như thế nào thì nói ra như thế ấy – cái chân, cái như thực- thuộc về không gian thiền:

“- Xuân đi, đóa đóa hoa rơi
Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu
Việc đời trước mắt qua mau
Tuổi già chợt đến trên đầu thế a!”
 (Mãn Giác)
Cho chí bài thơ “con cóc”cũng rất là thiền:
“- Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi”

 Vì đấy là hình ảnh, sự vật đang vận động, tuần tự hiển hiện trong không- thời- gian thực.

Tuy nhiên, nếu diễn đạt quá khô khan, quá trần trụi như thế thì đâu còn là thi pháp, là mỹ học, là yếu tính của thi ca nữa? Nó chỉ là bức tranh vô cảm. Là thông tin theo kiểu kết hợp từ của thường ngữ, không phải là thơ. Cũng diễn tiến hình ảnh và sự việc như vậy, nhưng thêm chút tình, chút hoàng hôn, chút hương trầm nữa thì nó lại khác:

“- Khách về trời chưa tối
Nhẹ tay khép cổng sài
Quay lưng hiên nắng nhạt
Hương trầm thoảng thư trai”
 (MĐTTA)

Đấy là thiền, là cái hoạt dụng tự tại đang trôi chảy trong không gian vắng lặng, thanh bình.

Vậy, thơ thiền thì chẳng có gì phải bình giải, luận bàn, phân tích cả. Thơ thiền giản dị như: “Anh ăn cơm chưa”, “Dạ rồi”, “Thì uống nước đi”. Thiền với đôi mắt xanh trong suốt, với đôi bàn tay mở ra, với trái tim và hơi thở cùng nhịp đập và chuyển động với hiện tồn. Chẳng có gì bí mật, ẩn khuất, đa sự... trong ngôn ngữ của bậc đạt ngộ. Ai muốn đi tìm những lý giải cao thâm, những ý nghĩa huyền vi, những mật mã siêu hình, những cảm-hứng-ngữ trầm hùng, siêu thoát thì hãy đến với những bài thơ có tư tưởng thiền. Nhưng hãy dè chừng một điều: Những ý tưởng thâm trầm, hay ho, những luận giải thâm uyên, bác học - như Thiền luận trác việt của học giả Suzuki chẳng hạn - thì cũng chỉ như ngôn ngữ của người ngọng: “Ú ớ...u ơ” ở bên này mép rìa của thực tại mà thôi. Nhà học giả Suzuki đã có tâm huyết và tấm lòng ban tặng cho lý trí Tây phương những món ăn ngon béo bổ, nhưng đã giết chết mầm giống tâm linh trực giác của thiền. Có lẽ trong tất cả chúng ta ở đây, ai ai cũng đã từng nghe tuyên ngôn của thiền Đông độ: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”

Triết lý thất bại, thơ ca mới xuất hiện. Lý trí thất bại, thiền mới mở đường. Thật khá thương cho ai cứ cổ súy thơ ca phải hướng đến triết lý. Thật khá thương cho ai muốn dùng kiến thức, lý trí và cả viện hàn lâm để hiểu thiền! Xin thưa, thiền có thể hiểu, có thể biết; hiểu và biết ở những khái niệm khô rỗng chứ chưa bao giờthực tại. Thiền là cái thấy, là phạm trù của tuệ giác, của chứng nghiêm tự thân. Ở đây là giọt nước trong mát tự đầu nguồn.

 Để kết luận,

Thơ, khi đã định hình thì nó có đường bay. Đường bay thấp, đường bay cao, đường bay la đà, đường bay ngất ngưởng, đường bay phiêu hốt, đường bay yêu thương ngọt ngào trần lụy, đường bay khinh linh hạc trắng ngàn sương... Có một vài đường bay ngẫu nhiên ngẫu nhĩ đâu đó của thơ sẽ bắt gặp đường bay của thiền trong cuộc tao phùng hy hữu kỳ ngộ.

Còn chân trời? Mọi chân trời đều thất bại. Có chân trời là có vọng cầu, toan tính, ước vọng. Có chân trời là có lý tưởng, có sở dục tương lai. Mọi lý tưởng, mọi tương lai đều bất thực, nó chính do bản ngãvọng tưởng phóng hiện ra.

Không biết tôi có tự tin và chủ quan quá không khi xác quyết rằng: Thơ thành tựu cho chính nó, trong đường bay của chính nó, tự dovô tận mà chẳng tuyên ngôn vị nghệ thuậtThiền thành tựu cho chính nó, trong đường bay của chính nó mà không tuyên ngôn vị nhân sinh. Cả hai, chúng quên ý nghĩamục đích, quên cả chính nó – nhưng mỹ học và nhân văn thì tồn tại.

Cả thơ và thiền đều như trăng, chẳng soi chiếu cho ai mà làm sáng cho tất cả. Trăng, còn để dành cho khách lãng tử và bạn tri âm. Đôi khi nó đối ẩm và tĩnh tại với cõi cô liêu xa hút, cỏ hoa và cả trời đất nữa...

(Bài tham luận đọc trong ngày FESTIVAL THƠ HUẾ
tổ chức tại Tòa soạn Tạp chí SÔNG HƯƠNG, 5/6/2006).

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

 

Ghi chú:
(1) Xem: “Xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thơ Mã Giang Lân” tạp chí Sông Hương số 11, năm 1996.
(2) Xem:” Những đóng góp của các cây bút thơ nữ trong phong trào thơ mới” Lê Dục Tú - tạp chí Sông Hương số 7, năm 2001.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11125)
Theo bình chọn của tạp chí Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô la (USD). Ông còn là người chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị.
(Xem: 8843)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10301)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11165)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
(Xem: 11148)
Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất.
(Xem: 10119)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11904)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11695)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11743)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10224)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9525)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10374)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9838)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11866)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11553)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10591)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11906)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10328)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10552)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10763)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11589)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 12338)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
(Xem: 10195)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9829)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10461)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9693)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11324)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9951)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 12039)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9732)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 22062)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10263)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9531)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10279)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16762)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14374)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10327)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9305)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9386)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13117)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10957)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12489)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10950)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13124)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11608)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9930)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12984)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11471)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13198)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12732)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant