Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Học Phật Và Tu Phật

06 Tháng Tám 201511:10(Xem: 10767)
Con Đường Học Phật Và Tu Phật
CON ĐƯỜNG HỌC PHÂT VÀ TU PHẬT

Thích Thanh Thiện

Con Đường Học Phật Và Tu Phật

Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.

Nhìn lại sự tu học của người Phật tử tại gia trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nó đã tạo được một sinh khí tu học đầy phấn khởi cho tín đồ Phật giáo Việt Nam từ hai thập niên qua. Các vị có trách nhiệm càng lúc càng nhận rõ vai trò trách nhiệm của người hướng dẫn tinh thần mà hàng xuất gia phải đáp ứng, vì chính đây là nhu cầu bức thiết của người Phật tử tại gia trong giai đoạn hiện nay.

Có nhận rõ trách nhiệm này chúng ta mới thấy hết được con đường "cứu cánh" của đạo Phật để khỏi nhầm lẫn giữa tu Phật và học Phật. Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau. Tu là một sự nỗ lực chuyển hóa tâm thức, hạ thủ công phu, làm cho tâm linh càng đi vào chiều sâu của Tâm, giải quyết vấn đề nội tại của chính mình, nói cách khác Tu là một quá trình nhìn lại mình để sửa đổi làm cho các phiền não không dấy khởi làm cho mình bớt khổ đau. Còn học Phật chỉ là học lý thuyết những phương pháp nhằm làm sáng thêm con đường tu, người ta cho rằng sự tu như con đường, còn giáo lý của Phật như ngọn đèn soi sáng cho người lữ hành đi khỏi bị lạc.

Cho nên Đức Phật dạy: "Này các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp". Nếu người học Phật nhận thức sai lạc ngọn đèncứu cánh thì quả là tai hại. Điều này xưa nay vẫn thường xảy ra trong giới xuất gia lẫn tại gia, một ngày chỉ cần tụng một hai thời kinh, niệm vài ba câu niệm Phật, ăn chay trường, ăn chay kỳ... là tu. Có thể nói là một sai lầm lớn, cho nên người xuất gia phải hướng dẫn, tạo cho người Phật tử một quan niệm đúng đắn về chữ Tu.

Chúng tôi đã từng chứng kiến có những người học Phật, viết sách Phật học quyển này sang quyển khác, nói thao thao bất tuyệt đạo lý đầy vẻ cao siêu, tưởng như vượt ra ngoài đối đãi thường tình, nhưng khi gặp duyên xúc cảnh thì than ôi! Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn hạnh môn trung bất xã nhứt pháp" (Trên lý thuyết chẳng dính chút bụi trần, nhưng việc làm thì không việc nào mà không bị vướng mắc).

Trong vài năm trở lại đây các lớp Phật pháp, các khóa tu Bát Quan trai, khóa tu Phật thất (Niệm Phật), các khóa Thiền thất (tham thoại đầu, toạ thiền) khắp cả nước được các Tỉnh, Thành hội hoặc các tự viện nở rộ, các khoá huấn luyện sinh hoạt Gia đình Phật tử, Chương trình Phật học hàm thụ (do báo Giác Ngộ tổ chức) cũng được tổ chức số lượng càng ngày càng đông và chúng ta cũng thấy rõ sự ham tu hiếu học của Phật tử tại gia là một điều đáng mừng cho tổ chức Phật giáo trong giai đoạn hiện nay.

Nhưng bên cạnh đó cũng có điều chúng ta phải nghĩ đến, làm sao tinh thần Phật học được đi vào đời sống của chính những người học Phật pháp. Đó chính là người Phật tử hiểu đúng nghiã chữ Tu và Học mà không phải học giáo lý để nói suông: "ăn cơm dưới đất nói chuyện trên trời" xa rời thực tế của đời sống tức là chính chúng ta tự đánh mất tinh thần thiết thực của học Phật và tu Phật và cũng chính chúng ta làm cho Phật giáo suy đồi vì rơi vào căn bệnh "hội chứng nói suông" hay tu theo "bệnh hình thức" mà Ngài Huyền Giác đã nói : "Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu, trung hạ đa văn đa bất tín, đản tự hoài trung giải cấu y, thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn?" (Bậc trung hạ, những căn cơ thấp kém, học thì nhiều học trích cú tầm chương, luôn mồm khoe học vị với văn bằng, cởi áo bẩn không biết đường mở nút -- HT. Thích Từ Thông dịch).

Như vậy việc học Phật và tu Phật mấu chốt ở nội tâm nhằm giải quyết những trói buộc của phiền não gây khổ đau, chứ chẳng dính mắc gì đến kiến giải suông mà các vị Tổ sư thường gọi đó là "nhai cặn bã của người xưa". Xác định được đâu mới là tu, đâu thiếu tu là ở đời sống thường ngày, chính điều này Đức Thế Tôn đã cảnh báo khi Ngài còn tại thế:

"Dầu đọc tụng nhiều kinh, tâm buông lung cẩu thả, như kẻ chăn bò thuê, khó hưởng Sa môn quả.
Dầu đọc tụng ít kinh nhưng hành trì giáo pháp, như thật tâm giải thoát, từ bỏ tham sân si, hai đời không chấp trì, thọ hưởng Sa môn quả " (Pháp cú 19-20).

Qua lời dạy của Phật ta thấy thực hành mới là tu, còn hiểu lý Phật nhưng không hành chỉ là người đứng ngoài mà Phật giáo cho đó là"ngoại đạo" dù người đó là đệ tử Phật. Từ đây có thể nhìn lại mỗi tự thân mọi sự tranh chấp hơn thua, phải quấy, chánh kiến này, chánh kiến khác, tổ chức này tổ chức kia chỉ là những trói buộc của mọi khổ đau đang có mặt trong tâm thức của anh dù anh là ai ở đâu, đang làm gì... và biết anh đang thiếu tu vì khổ đau, sân hận có mặt trong anh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2533)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2358)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2440)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3249)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2715)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3001)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2561)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2597)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4102)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3312)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2609)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2748)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3267)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2558)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2940)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2718)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant