Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Uống trà giữa mưa gió mùa thu…

26 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 14868)
Uống trà giữa mưa gió mùa thu…


Nói với tuổi trẻ, tình yêu và lý tưởng…

Uống trà
giữa mưa gió mùa thu

Cư sĩ Liên Hoa

Trời thu suối tóc hoa vàng
chở từng hạc trắng bay về chốn nao
lưa thưa ngừng khoảng trời mơ
chơi vơi bên tách trà sen giữa mùa

nguồn thơ toả khói mờ sương
em nằm yên ngủ bên bờ vấn vương
tóc dài ngàn cánh lá vàng
mắt em mang cả mộng vương vào đời

vô tình hoa bướm vẽ mơ
dỗi hờn nên lá buông mình rời cây
đường xưa mây xoã tâm tình
bóng thu ngày đó, đời còn bên nhau

ngập ngừng nâng một chén trà
nghe hương ướp nhạt làm say đất mềm
thấy trong đôi mắt ngỡ ngàng
rừng cây, chiếc lá, uống trà gió thu...

Đọc lời tựa “uống trà giữa mưa gió mùa thu”, ai cũng tưởng tôi là dân chơi thứ thiệt về trà đạo, vì biết thưởng thức trà, nên mới có chiêu thức là ngồi uống trà giữa gió thu, như một kiếm khách trong truyện tiểu thuyết kiếm hiệp, oai hùng, phong lưu... không sợ bị cảm lạnh, sổ mũi, hắt hơi… khi tách trà chưa kịp cạn.

Như nhiều lần thưa, tôi không được ngon lành đến như vậy. Một con người phàm tục, có một chút gió cũng làm cảm lạnh, vài giọt mưa cũng đã rùng mình, một sợi nắng cũng làm ấm đầu, hâm hấp trán. Ôi... một tráng sĩ mà yếu đuối như vậy, không có chí khí, ngạo nghễ, ngang tàng để nhìn đời qua cặp kiếng màu đen, chưa thấy ai đến để so kiếm so tài thì đã bị ngả quị bên đời rồi. Tuy nhiên, vì nói về chuyện uống trà, nói cho văn vẻ hơn là thưởng thức trà... thì khi nghe người ta giới thiệu trà nầy ngon, trà kia tốt lắm, trà nọ tuyệt hảo... là tôi vội chạy đi tìm cho có để thuởng thức. Có người hỏi là đã từng uống trà nầy hay trà khác chưa, thì tôi luôn mạnh miệng trả lời liền, cho ra vẻ mà… Ồ, trà đó ngon lắm, có cái hậu ngọt, đậm đà... rồi đầu gật gù hồi tưởng, như đang thưởng thức trà. Nói xong thì thật là mắc cở, vì có uống thì vẫn uống vậy, chứ nào biết trà nào ngon hay dở, nhưng dù sao thì khi nói ra được như vậy, nghĩ là làm cho người ta sợ, nể và bỗng nhiên cảm thấy mình oai ghê gớm… Đó cũng là bí mật và là sở trường huênh hoang của tôi…

Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười trong màu áo vàng sặc sỡ. Cơn gió thổi qua, lá rùng mình rơi xuông, lả lơi trước khi nằm in trên mặt đất, run mình theo gió… Lá có bao giờ muốn lìa cây, chỉ có cây không còn cho lá bám dínhvào thân, hất hủi để lá vững vàng trong đời sống. Có ai trách lá vàng rơi, có ai nâng niu chiếc lá để chia sẻ nổi niềm tâm sự. Lá đã bao lần thay da đổi thịt, mỗi một mùa, mỗi một cơn gió, mỗi ước mơ, mỗi sóng gió… đã làm cho lá vàng thêm sậm hơn, sự nhẫn nhục càng thâm sâu, buớc chân trụ thế sẽ nhẹ nhàng đi qua cuộc đời. Ôi màu vàng, cái màu yên bình, màu vàng kỳ quái chạy đuổi theo bước chân của gió, gió vui đùa cùng lá vàng, đuổi theo vui đùa thoả thích cùng sắc vàng, tiếng cười vang rộn ràng chào đón thu, hơi thở chở màu vàng, bàn tay năm ngón vịn lá vàng…

Ta chạy đuổi nhau
lá vàng êm đềm quá
dưới bước thiên thần
trời đất cũng làm thơ

màu áo em mặc
vô tình người cảm lạnh
gió thổi ngỡ ngàng
rơi lại một tình mơ

có gì đâu nhỉ
lời nào, lời vụng dại
còn lại tâm mình
cây lá cũng reo vui…

Áo mùa thu bao giờ cũng đẹp, đẹp não nùng theo màu sắc. Đã biết bao nhiêu người ca tụng thu, vui đùa cùng thu, thu đã và đang đi qua bao ngưỡng cửa cuộc đời người. Thu đùa trên tóc, trên mắt môi, theo thơ văn vào cuộc đời, đi đến để dâng tặng cuộc đời những tâm tình cao sang, quyến rũ. Thu như chén trà nhấp trên đôi, hơi sen còn mặn nồng, ngây ngất sợ hương thơm bay mất, lòng đã lịm trong chất trà, ngọt lịm bờ môi. Ngàn cánh hoa, lá, gió, mưa… chở ánh vàng, như dát lên tất cả vũ trụ vàng sáng soi, mơ màng, ảo diệu.

Uống trà say ngủ trên mây
Gió qua, mây vỡ, mộng rơi còn gì…

Đã bao lần buớc theo cuộc đời, tuổi trẻ đã từng lúc đánh mất mình trong những điệu ru ảo tưởng “gió đưa mây vỡ, mộng rơi con gì..” như một mũi kim chân chích vào nội tâm, vào tấm lòng, vào lý tưởng của tuổi trẻ. Lý tưởng cưu mang là những gì đuợc nhân lên do suy tưởng, do lòng đam mê, thần tượng hoá và do bản chất nhiệt tình muốn vươn lên cao, muốn đóng góp gì đó cho con người, cho xã hội v.v…

Quê hương bị chiến tranh, phân hoá; lòng người phôi pha, rời xa nhau dù là cùng con người chung một tiếng nói, một đất nước. Những hô hào, những cổ súy, những khích động… làm bừng lên khí thế dấn thân. Tuổi trẻ là những gì đẹp nhất trong cuộc đời với lòng say mê lý tưởng. Tôi đã từng ghi khắc trong tâm mình dòng chữ “hy sinh thực hiện lý tưởng” với sự quyết tâm, với lòng dâng hiến cuộc đời.

Quê hương tôi đó
ngập tràn trong khói lửa
ai là người mở được lối ra đi
cho nước mắt chắp đôi tay san sẻ
cho tấm lòng là cam lộ hiến dâng
tôi đã khóc khi em vừa mất mẹ
tôi đã cười vì lời nói lặng câm
hỡi con người, sao lại nở hại nhau
hỡi trái đất, vì ai người nuôi duỡng
kẻ thù ta, nào phải trái tim người….

Tuổi trẻ đã từng rực lửa trong niềm say mê, đi vào đời với tất cả chí khí nam nhi, với đôi tay mong bóp đá thành cát, với trái tim mong biến hận thù, chết chóc thành hoà bình, thương yêu, mong con người được gần gũi với nhau dù là khác màu da, chánh kiến, tư tưởng v.v… Học đòi làm người lớn, chúng tôi ôm mình theo “đi tìm một căn bản tư tưởng”*, “xây dựng nhân sinh quan” * cùng biết bao nhiêu học thuyết, triết thuyết đương đại khác để mong chọn lẽ sống, đường đi cho chính mình với lý tưởng, ước mơ cao vời vợi .

Nhưng rồi, khi va chạm thưc tế, có những cái mất mát, những đổ vỡ xuất hiện… Hoang tưởng, thần tượng vô tình sụp đổ vì nhiều lý do đôi khi cầu kỳ, ẩn dấu hoặc đơn giản, vì danh vọng, vì an thân, vì lợi dụng, vì và vì… Chiến tranh, sự va chạm văn hoá, những sự vong thân do mất đường đi, mất lý tưởng của tuổi trẻ đã làm cho tuổi trẻ bị hoang tàn, rơi rụng trong sự thất vọng não nề.

Mất niềm tin vào thần tượng, mất lý tưởng vừa được nuôi dưỡng, ôm ấp qua những tư tuởng vay muợn của nguời khác với áo khoát tuyệt vời, cao siêu … những cũng lại là bị tha hoá trong nội dung của thần tượng.

mắt tôi thắp sáng tâm mình
lòng tôi mang cả bầu trời thương yêu
ngày mai, ai hỏi về đâu
bây giờ, tôi chỉ cúi đầu lặng im
người ơi sao lại vội vàng
riêng ta, chẳng biết về đâu chốn nào…

Khi những đau khổ chập chùng xuất hiện như cơn sóng trào dâng, từng sóng nhỏ to cuồn cuộn lăn đến, lúc bị hụt hẫng trong một ước muốn, trong nội tâm, với lý tuởng thành hình bị vỡ vụn… những khổ đau dày xéo tâm tôi. Ôi cái tuổi trẻ mang hình hài của mình, muốn đem chính thân mạng mình ra đế thực hiện, để thách thức với cuộc đời, với lý tưởng… và khi không còn gì để bám víu, bị vong thân trong chính thân tâm mình… thì tự trong chiều sâu của nội tâm, giọng nói từ bi, ngọt ngào xuất hiện: “Con hãy là hòn đảo cúa chính mình”

Có phải bao nhiêu lâu nay, chúng ta đã mất thời gian để chạy theo cảnh ở bên ngoài, và qua đó, đem bản ngã của chính mình để dán nhản hiệu cho đối tượng. Cho nên, khi các pháp không hiện hữu như chính mình mong muốn, đánh mất cái ngã chính mình, nên đã vội cuống cuồng kêu lên, thất vọng. Đó cũng là bi kịch của cuộc đời, của tuổi trẻ.

Hình bóng đức Phật hiện ra trong phút nầy, làm sụp đổ mọi quan niệm trong tôi. Đức Phật của tự tâmđức Phật của lịch sử đã quyện vào nhau, làm thành một thực thể tương duyên, thể là thể, tánh là tánh, thể và tánh hoà nhập làm một.

“Đừng xả tướng tâm, đừng trụ tâm tướng”. Lý tuởng của tuổi trẻ vụt đứng dậy, hiên ngang giữa bầu trời có áng mây trôi qua, có ánh nắng chan hoà, có vài cơn gió hiu hiu thổi. Nếu tuổi trẻ bắt được nhịp cầu của giáo Pháp đức Phật, có lẽ, chúng ta sẽ không đau khổ trong những vọng niệm tha hoá. Bởi vì, đức Phật là một lý tưởng tuyệt vờituổi trẻ tìm và bắt gặp, không phải bằng những hình ảnh phóng ra bên ngoài, nhưng chính ngay tự tâm mình.

Đức Phậtba thân “Pháp thân, Ứng thân, Báo thân” đi vào đời vì đại nguyện cứu chúng sanh. Con người ai nấy cũng đều có ba thân như đức Phật, nên cũng cần thể hiện ba thân đó đi vào đời. Càng thể nhập vào Pháp thân, sẽ tạo cho Ứng thân chuyển hoá, có nhiều sắc tố vi diệu do sự tu tập, thanh tịnh hoá tâm nên mang nguyện vào đời qua những Hoá thân khắp mọi nơi.

"Ngã thị Phật dĩ thành, chúng sanh thị Phật đương thành". Chúng ta chưa bao giờ thấy một Giáo chủ của bất kỳ tôn giáo nào trên thế gian nầy, có cùng tư tưởng như vậy. Nếu chúng ta không chuyển tâm, quán chiếu, soi lại bóng mình, thì tất cả mọi hành động, mọi dấn thân… đều mang dáng dấp của tự ngã, mang khát vọng, chiếm hữu, dư thừa ngã của mình ban cho đời nên sẽ gây đau khổthất vọng, đánh mất lý tưởng chân chất của mình.

Đơn giản như vậy mà bao nhiêu năm nay, chúng ta đã đi hoang, lấy của người làm của ta, lấy nhân sinh quan của ai đó làm hành trang cho chính mình, bỏ quên cái tâm trong sáng vẫn còn hiển hiện trong chiều sâu của tâm, như ánh trăng sáng sáng còn đó.

Khi quán chiếu thâm sâu, chúng ta chợt nhận thức được Tánh giác, được tánh Bát Nhã trong các Pháp, và thấy các Pháp đều do duyên sanh duyên diệt, thấy năm uẩn đều không. Một chân trời bừng sáng làm rõ ràng, mở toang bao cánh cửa trở ngại, chiếu soi các Pháp để thấy được được mặt mũi vuông tròn (quan niệm của Mật giáo), được sự rộng mở bao la của tự tánh, thấy được tam muội hiện tiền.

Càng đi sâu vào Bát nhã, chúng ta càng cám ơn tấm lòng từ bi, cao cả của đức Phật, vì không có sự khai sáng giáo Pháp chân thật của Ngài, chúng ta vẫn còn đi hoang như người cùng tử không biết đường về, sẽ lăn chuyển, nổi trôi trong vô luợng sóng gió, hoạt hình của đời sống...

Tóc hương thơm Bát nhả
lãng đãng giữa trời mây
ta mang đèn soi sáng
từng quen nhau thuở nào…

Nếu chúng ta luôn hành thâm Bát nhã, trụ trong Bát nhã, sống trong Bát nhã… có nghĩa là không có gì có thể hoại diệt được Bát nhã. Mang Bát nhã vào đời, dù bất cứ ở đâu, nơi chốn nào, điạ dư, quốc độ nào…Bát nhã vẫn theo người hành giả thể nhập và lan rộng như ánh mặt trời soi sáng khắp muôn phương. Nơi đó, tâm vô úy thành hình, đối diện cuộc đời, nhìn cuộc đời như hoa mộng, như huyễn cảnh, như sóng điên đảo của vọng tưởng… nhưng vẫn đi vào cuộc đời để song hành, để chuyển hoá cuộc đời đến nơi an lành, hạnh phúc với cái tâm bồ đề không suy thoái.

Nếu Bát nhã không nằm trong tâm của con người, của mỗi người, của những người sáu thời an trú trong chánh niệm… thì đạo Phật đã bị hủy diệt hoàn toàn tại Ấn độ trước đoàn quân cuồng sát, vô mình của những người Hồi giáo lúc bấy giờ rồi. Nhưng vì Bát nhã không ở nơi chốn đó, nơi đền đài, chùa miếu đã bị tàn phá v.v… vì đó chỉ là các pháp thành hình và sẽ hủy diệt, vô thường; mà Bát nhã nằm trong tâm của mỗi người, soi sáng đường đi trên hành trình trở về Nhân cách Nhân bản thực sự, nên đã lan tràn khắp mọi nơi.

Con đường của ba Pháp ấn : Khổ - Không Vô Thường - Vô Ngã đã nằm trong Níết bàn (Nirvana), nơi an tịnh, nơi nhị nguyên vắng mặt, nơi các Pháp hoà điệu, thân tình… đi vào đời bằng hành trang, tư lương trong thể nhập… đạo Phật đã biểu hiện tuyệt vời qua “Phật Pháp tùy duyên bất biến và bất bất nhưng tùy duyên” và là “Phật Pháp là bất định pháp” tùy khế cơ khế lý của con ngườichỉ dẫn thực hành và chính con người đó là người chuyển hoá, hoàn thành lý tuởng Thánh thiện của chính mình.

Đừng bao giờ đóng khung trong một Tông phái nào mà cho duy nhất, vì tất cả pháp môn chỉ là “phương tiện thiện xảo” đưa người nẻo giác. Vuờn hoa giáo Pháp của đạo Phật có đầy đủ mùi hương, vạn loại kỳ hoa cung ứng cho tâm bệnh của từng mỗi chúng sanh cần đến.

Gíó bỗng thổi qua đây nhiều quá, có làm cho lòng se thắt lại. Hãy cùng nhau thưởng thức chén trà nữa đi em. Sao lại suy tư để dẫn dắt mình lang thang qua nhiều nẻo đời, rồi lại đem lòng lo lắng. Tình yêu của mình, tình yêu của con người đem chúng ta lại với nhau, phải không? Con người có gì là chia cách nhau, phải chăng cũng chỉ vì ngả, vì thù hận, vì đa nghi, muốn thống trị, vị kỷ… chúng ta làm cho con người xa nhau.

Thu đã về rồi đó em. Uống trà bàn chuyện lá thu, sao chúng ta không hiểu rằng thu cũng đau khi lá lìa cành, bỏ lại thân mẹ. Thu có làm, có tạo cho đời nhiều hình ảnh đẹp, nhưng cũng mang trong mình muôn vạn vết thương đau. Thử lấy tay nhéo lấy da thịt mình, em có biết đau không? Từng lá thu rơi, dù cho em có đem biết bao nhiêu mộng tưởng thành hình để lắng nghe thu về, lắng nghe thu ca, thu thở, sao em không biết lắng nghe tiếng thu than thở dài theo gió, theo lá rơi.

Hãy nhìn kìa. Hình tượng Bồ tát Quán Âm đang nhìn mình sau đám mây xanh mờ trên bầu trời, chỉ có người nhìn lại mình, nhìn thấy lòng người, thấy tình người… sẽ thấy hình tượng của Ngài. Hãy thấy Ngài trong tâm mình, em nhá. Ngàn tay, ngàn mắt, vẫn là muôn vạn tấm lòng, chia sẻ đến và vì con người….Hãy uống cạn chén trà, để hương vị Bát nhã thấm theo từng da thịt, đi vào ngả ngách của tâm, để chúng ta trở thành con người chân thật, không mộng, không cầu kỳ, sống đơn giản, chân chất giữa đời. Phải chăng chỉ có tấm lòng “vô ngã”, con người sẽ thấy được nhau trong tình huynh đệ, tình người..

Ta ngẩng mặt, blank
mở lòng thành chiêm nguỡng
ôi mùa thu,
em đẹp quá đi thôi
từng dáng buớc,
đôi chân non mềm mại
chở thu về,
vũ trụ để hồn, say
đôi mắt đó,
dẫn mùa thu huyền thoại
chiếc lá vàng
khoan nhặt thả lời thơ
xin gom lại,
một tâm tình tha thiết
dâng mùa thu,
lời hoa trái tình người…

Thưa bạn, miên man về chuyện thưởng thức trà, nhưng tự nhiên dòng sóng tuổi trẻ năm nào tràn lan, trở về… như từng cơn sóng nhỏ. Nguời thưởng thức trà, chèo chiếc thuyền con ra khơi, nuơng theo con sóng… nhìn thấy con sóng tượng hình thật đẹp như vô lượng sóng của cuộc đời. Tội gì không chèo thuyền ra khơi. Thật là uổng phí đời người, nếu chúng ta không thưởng thức trà trước bao sóng gió, để nghe buớc chân thu về, thấy bóng dáng của thu… thu đau, chúng ta có đau không? Con người bị đau khổ, chúng ta có sẵn sàng chia sẻ nhau không?...

Một thoáng mây bay, một huơng trà thoảng, một tấm lòng vừa khơi dậy qua con người thô thiển, cục mịch, kém ăn kém nói, hay làm nhiều người ghét… giống như tôi, nhưng với lời chân thành nầy, dù bạn có đồng ý với những tư tưởng hạn hẹp như trên hay không, cũng xin nhận nơi đây một tấm lòng chia sẻ cùng nhau… vì chúng ta đều là con người, có đau khổ và có hạnh phúc… Xin dâng hạnh phúc đó đến mọi người qua mùa thu về..

Mong lắm thay….

Một ngày mùa Thu.

viết xong ngày 10.11.2009

____________________________________________

- Đi tìm một căn bản tư tưởng- Nghiêm xuân Hồng
- Xây dựng Nhân sinh quan- Nghiêm xuân Hồng



Cư sĩ Liên Hoa


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2241)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2543)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3272)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2558)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2233)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2593)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2663)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2728)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2785)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3086)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2296)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2884)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2493)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2702)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2836)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2963)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant