Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phép Quán Thế Âm Bồ Tát Để Sám HốiThanh Tịnh Nghiệp

21 Tháng Mười Một 201513:20(Xem: 14187)
Phép Quán Thế Âm Bồ Tát Để Sám Hối Và Thanh Tịnh Nghiệp
PHÉP QUÁN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐỂ SÁM HỐITHANH TỊNH NGHIỆP

Vân Nguyễn và Lozang Pema dịch

Phép Quán Thế Âm Bồ Tát Để Sám Hối Và Thanh Tịnh Nghiệp

Chúng ta hãy tạo động lực bằng cách nghĩ rằng ta đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp này và trong vô lượng kiếp trước. Những ác nghiệp này, khi kết trái, sẽ trở thành những nỗi đau khổ liên tục nếu ta không thanh lọc (rửa sạch) chúng. Ác nghiệp sẽ làm cho ta không đạt được hạnh phúc trong kiếp này và những kiếp sau, mà còn ngăn cản ta đạt tới tiềm năng đầy đủ của một tâm giác ngộ, và ngăn cản ta đạt tới mục tiêu cứu khổ chúng sinh, đưa họ đến giác ngộ.

Hãy ngồi thoải mái, thẳng lưng và thả lỏng các cơ bắp trong người.

Hãy đưa ý thức của ta theo hơi thở, khi hơi thở đi vào và đi ra khỏi lỗ mũi.

Hãy cảm nhận hơi thở đi sâu vào phổi ta, rồi thở ra hoàn toàn. Hơi thở luôn an trú trong hiện tại, khi theo dõi hơi thở, tâm trí ta cũng an trú trong thời điểm hiện tại.

Hãy để ra vài phút chỉ theo dõi hơi thở và để cho tâm trí được tĩnh lặng.

Hãy hình dung Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trước mặt ta, ngang tầm mắt. Ngài đẹp tuyệt trần, thân Ngài kết hợp bằng ánh sáng. Ngài là hiện thân của tất cả từ bitrí huệ của từng vị Phật (trong ba đời), Ngài đang cười với ta, ban tình yêu bao la trong đôi mắt Ngài.

Bồ Tát đã nguyện sẽ giúp đỡ chúng sinh khi được thỉnh cầu. Vì Ngài là một đấng giác ngộ, nên Ngài có năng lực giúp ta gột rửa sạch tội lỗi mà ta đã gây ra. Ngài mong muốn ta chỉ kinh qua hạnh phúc và không còn đau khổ nữa.

Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ đem tới nghiệp quả đau khổ trong tương lai. Hãy nghĩ lại suốt cuộc đời ta và sám hối về các điều xấu ác mà ta đã làm, dù ta nhớ hoặc không nhớ. Rồi hãy nghĩ đến các tội lỗi mà ta chắc chắn đã làm trong vô lượng kiếp trước. Hẳn là nhiều lắm. Hãy khởi tâm sám hối mạnh mẽ trong tim (thâm tâm) ta.

Từ trán của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng trắng đi vào đỉnh đầu của ta. Luồng ánh sáng đó đi khắp cơ thể ta, rửa sạch bất cứ thân nghiệp nào mà ta đã tạo ra từ tấm thân này. Hãy cảm nhận lòng từ bi và trí huệ của Ngài đang ngấm vào cơ thể ta và cảm thấy rằng ta được hoàn toàn thanh lọc (bởi lòng từ bi và trí huệ này).

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Từ cổ họng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng đỏ đi vào và bao quanh cổ họng ta, rửa sạch hết bất cứ khẩu nghiệp nào mà ta đã gây ra từ lời nói của mình. Hãy cảm nhận trí huệlòng từ bi của Ngài ngấm vào cổ họng ta và ta được hoàn toàn thanh lọc.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Từ tim của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng xanh lam đi vào và bao quanh tim ta, rửa sạch mọi ý nghiệp mà ta đã gây ra từ tâm thức và ý nghĩ của ta. Hãy cảm nhận trí huệlòng từ bi của Ngài ngấm vào tâm thứccảm thấy ta được thanh lọc hoàn toàn.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Bây giờ, hãy hình dung cả ba luồng ánh sáng (trắng, đỏ và lam) cùng đi vào đỉnh đầu, cổ họng và tim ta, hoàn toàn rửa sạch các dấu vết tiêu cực nào còn sót lại.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Hãy cảm thấy tất cả những gì tiêu cực của ta đã đuợc hoàn toàn rửa sạch, tự hứa với mình và chư Phật rằng ta sẽ cố giữ để không gây nghiệp xấu trong một khoảng thời gian nào mà ta có thể giữ được. Thời gian này có thể là một giờ, một ngày, một tuần, hoặc tùy theo ta thấy có thể giữ trọn lời nguyện được bao lâu.

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta. Hãy biết và cảm nhận rằng ta không bao giờ bị xa lìa khỏi Ngài, hãy cầu nguyện cho ta và tất cả chúng sinh nhanh chóng thanh lọc hết tiêu cực, từ bây giờ trở đi chỉ tham gia vào các việc thiện hảo.

Nguyện cho ta luôn nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh, nguyện cho ta cùng tất cả chúng sinh nhanh chóng được giác ngộ như Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

Ani Tencho,
Quán Tự Tại Phật Học Viện www.chenrezig.com.au 4.5.2007

Ghi chú: Xin hồi hướng công đức đến sự toàn giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan Âm Thiền Phật Học Viện, Vân Nguyễn và Lozang Pema dịch và hiệu đính tại Brisbane, Queensland. Tài liệu phân phát nhân dịp Ani Tencho hướng dẫn bàn luận và thiền luận về đề tài trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra Queensland, vào ngày 12 tháng 5 năm 2007.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2326)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2549)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2220)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3010)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4116)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3012)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2562)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2831)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2954)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant