Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mê Vui Trong Khổ Não

07 Tháng Sáu 201423:00(Xem: 9806)
Mê Vui Trong Khổ Não

MÊ VUI TRONG KHỔ NÃO
Nguyên Thiện

me-vui-kho-naoKinh Pháp Cú số 69 nêu một thực trạng đáng thương đáng trách của người si mê thiếu trí. Đó là việc đi tìm vị ngọt trong các hành động ác, chìm đắm mê say trong ác dục, không thấy hậu quả nguy hại của ác nghiệp, kết quả là người đó phải chịu khổ đau do các ác nghiệp mà mình đã làm, đã tích tập. Nguyên văn lời Phật như sau:

Người ngu thấy là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi
Người ngu chịu khổ đau”.

Cụ thể hơn trong khi giảng về một lối sống gọi là Pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”, Đức Phật nói rõ cho chúng ta biết có những người sống tìm vui trong sát sanh, trong lấy của không cho, trong tà hạnh, trong nói láo, trong nói hai lưỡi, trong nói lời độc ác, trong nói lời phù phiếm, trong tham ái, trong sân hận, trong tà kiến. Họ vui thú khi làm các ác nghiệp như vậy và sống với cảm giác vui thú ấy, quên mất rằng cảm giác vui thú nhất thời ấy là nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau đang rình rập. Kết quả là chính các ác nghiệp ấy đưa đẩy họ rơi vào cõi dữ, ác thú, đạo xứ, địa ngục:

“Này các Tỳ kheo, có người với lạc, với hỷ, sát sanh và do duyên sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ lấy của không cho và do duyên lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, nói lời vọng ngữ; cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, nói lời hai lưỡi và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ, với lạc với hỷ, nói lời ác ngữ, và do duyên nói lời ác ngữ, cãm thọ lạc và hỷ, và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ có tâm tham ái, và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc với hỷ, có tâm sân hận và do duyên có tâm sân hận, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, có tà kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị này sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú đọa xứ địa ngục. Như vậy này các tỳ kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ” 1.

Giảng giải về lý do lối sống chạy theo ác dục hay say vui trong ác hạnh ấy, Đức Phật nói rằng, “do vô trí, do si mê nên không biết như chân: “đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”. Do vô trí với pháp này, do si mê co không tuệ trí như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trường: các pháp khả ái, khả lạc khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỳ kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này. Này các tỳ kheo, ví như bình đồng đựng nước uống, có sắc, có hương, có vị mà nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến muốn sống, muốn không chết, muốn ưu lạc, hiềm ghét khổ, và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, bình đồng đựng nước uống này, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị.. sau khi uống, bạn có thể đi đến chết hay hay đau khổ gần như chết”: Người kia có thể uống, không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, người ấy được thích thú về sắc, về hương, về vị. sau khi uống, người ấy có thể đi đến cái chết hay đau khổ gần như chết. Này các tỳ kheo, ta nói pháp hành động giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”2

Lời Phật dạy nói cho chúng ta biết rằng, sự thiếu hiểu biết về thiện hay bất thiện, hay sự mê mờ về nhân quả thiện ácnguyên nhân của lối sống ác hạnh, khổ đau. Mặc khác lời Phật cũng gián tiếp lưu nhắc chúng ta cái xấu đôi khi cũng có sức hấp dẫn đối với con người, nghĩa là làm ác hay sống theo ác dục cũng có vị ngọt (hay nghĩ tưởng nhầm lẫn là ngọt?) nên mới có người chạy theo cảm giác vui thú nhất thời ấy mà bất chấp việc ác. Chỉ đến khi ác nghiệp chín muồi rồi thì (người vô trí, kẻ ác) mới thấy ác, nhưng mọi chuyện bây giờ đã quá muộn 3.Thái độ mê nhầm này là hết sức đáng tiếc và có gốc rễ của nó. Đó là tà kiến hay quan điểm sai lầm cho rằng không có kết quả của các nghiệp thiện ác, chẳng hạn, cũng theo lời Phật. “…Có một số Sa môn, Bà la môn thuyết giảng như sau, có sở kiến như sau: ‘không có lỗi trong các dục’. Những vị này đắm mình trong các dục, hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như sau: ‘Làm sao các tôn giả Sa môn, Bà la môn kia thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có lông mịn, của các cô gái lang thang trẻ trung này!”. Sau khi đắm mình trong các dục, khi thân hoại mạng chung, các vị ấy phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, khốc liệt, họ nói như sau: “ các tôn giả Sa môn, Bà la môn này thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Nhưng chúng ta, do các dục này làm nhân, do các dục này làm duyên, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ khốc liệt”4.

Quả là hết sức nguy hại cho đời sống khi rơi vào ý tưởng điên đảo cho rằng các dục không có lỗi hay nhầm tưởng vị của các dục là ngọt, vì sự mê lầm ấy sẽ mở cửa và khuyên khích lối sống buông thả theo bản năng dục vọng. Đức Phật gọi một ý tưởng hay cảm giác như vậy, là điên đảo, si mê, vô tri, vì nó khiến cho con người hoàn toàn mê mờ, điên đảo, say vui trong tai họa khổ đau, không biết rõ ác dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhầm lẫn cảm giác vui thú nhất thời với tai họa khổ đau lâu dài. Nói khác đi, do mê mờ về nhân quả không thấy rõ quy luật nhân quả báo ứng hay không tin diễn tiến nhân quả của các nghiệp thiện ác nên con người tự nuôi lấy tà kiến, có thái độ xem thường luật nhân quả, bất chấp đạo lý, dễ dàng làm mọi việc xấu ác để thỏa mãn dục vọng. Kết quả là theo lời đức Phật dạy “các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý (tức khổ não) tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý (nghĩa là an lạc), bị tiêu diệt trong người ấy, và vị ấy phải chịu khổ đau bất hạnh lâu dài”.

Để ngăn tránh lối sống tai họa khổ đau như vậy, Phật khuyên dạy mọi người phải biết tu tập, tự kềm chế bản thân, không sống đời phóng dật, không mê say dục lạc, đồng thời nên thân cận gần gũi các bậc Thánh hay các bậc thiện trí thức để học hỏi Chánh pháp và để phát khởi niềm tin về thiện pháp. Nhờ học hỏi chánh pháp nên thoát khỏi tà kiến mê lầm, đặc biệt nhờ hiểu rõ đạo lý nhân quả và được cũng cố bởi niềm tin về nhân quả thiện áccon người biết rõ đâu là thiện nên theo và đâu là ác nên từ bỏ. Đó chính là thái độ sáng suốt mở đường cho nếp sống hiền thiện an lạc của người hiền trí vậy.

Chú thích:

  1. Đại kinh Pháp hành, Trung Bộ.
  2. Đại kinh Pháp hành, Trung Bộ
  3. Kinh Pháp cú, Kệ số 119.
  4. Tiểu kinh Pháp hành, Trung Bộ.
  5. Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 113
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2761)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2541)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2665)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2538)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2369)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2420)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2474)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2555)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2654)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2616)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3075)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2810)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2624)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2695)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3277)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2565)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2956)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant