Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người biết đặt gánh nặng xuống

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 15769)
Người biết đặt gánh nặng xuống


Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại, nên ăn xong là khó lắm, ăn là một gánh nặng của tất cả con người chúng ta, Thầy à!
Ta ăn xong bữa nầy lại sinh ra bữa ăn khác, ta ăn xong cái này lại sinh ra cái ăn khác, cứ như vậy mà ta suốt cả cuộc đời lận đận với việc ăn; không những vậy mà từ đời nầy qua kiếp khác ta cũng đều bị lận đận bởi cái ăn của chúng ta.

Cũng từ việc ăn, mà nhân cách ta trở thành trác việt và cũng từ sự ăn mà nhân cách ta trở thành thấp kém, tầm thường; từ sự ăn mà ta bước lên địa vị của các bậc Thánh hiền và cũng từ sự ăn mà ta bị rớt xuống hố sâu, vực thẳm của cuộc sống.

Sự ăn của ta không đến do từ trời cao ban phát và cũng không đến với ta do từ lòng đất vọt lên hiến tặng, mà nó đến với ta từ nơi nghiệp thức nhân duyên do quan hệ sinh tử của mỗi chúng ta. Muôn loài và vạn vật cũng đều như vậy, tùy theo nghiệp thức nhân duyên liên hệ với sinh tử như thế nào, thì chúng biểu hiện các loại thúc ăn và cách ăn đúng như thế ấy.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm thô và biểu hiện cách ăn một cách thô tháo.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tinh tế và biểu hiện cách ăn một cách tinh tế đối với các thực phẩm ấy.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm xúc cảm thô tục và biểu hiện cách ăn xúc cảm một cách thô tục và manh động đối với những thực phẩm ấy.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm xúc cảm tinh tế và biểu hiện cách ăn xúc cảm một cách tinh tế và lắng sâu.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tư niệm thô động và biểu hiện cách ăn tư niệm một cách thô động và manh động đối với những thực phẩm ấy.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tư niệm tinh tế và biểu hiện cách ăn tư niệm một cách tinh tế và sâu lắng.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm nhận thức thô động và biểu hiện cách ăn nhận thức một cách thô động và manh động.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm nhận thức tinh tế và biểu hiện cách ăn nhận thức một cách tinh tế và lắng sâu.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm thiền định thô phù và biểu hiện cách ăn thiền định một cách thô phù.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm thiền định tinh tế, lắng sâu và biểu hiện cách ăn thiền định một cách tinh tế và lắng sâu.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tư tưởng thô phù và biểu hiện cách ăn tư tưởng một cách thô phù.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tư tưởng tinh tế, lắng sâu và biểu hiện cách ăn tư tưởng một cách tinh tế và lắng sâu.

Có những loài chỉ nuôi dưỡng đời sống bằng những thực phẩm tư tưởng và không phải tư tưởng một cách thô động hay tinh tế và biểu hiện cách ăn bằng tư tưởng và không phải tư tưởng một cách thô động hoặc tinh tế.

Trong các loại thực phẩm và trong các cách ăn ấy, có những loài chúng sanh nặng cái nầy mà nhẹ cái kia, có những loài chỉ liên hệsử dụng một hoặc hai loại thực phẩm và có khả năng biểu hiện một hoặc hai loại cách ăn, hoặc là đi, hoặc là đứng, hoặc là nằm, hoặc là ngồi, hoặc là chạy nhảy, hoặc ăn bằng cách nghĩ đến những thực phẩm và cảm nhận,… Nhưng nuôi dưỡng đời sống loài người chúng ta, thì chúng ta gồm có đủ các loại thức ăn và có khả năng biểu hiện đủ cả các loại cách ăn ấy.

Vì vậy, cách nuôi dưỡng đời sống con người khá phức tạp so với các loài vật khác. Và cũng vì vậy mà những sinh hoạt trong đời sống con người khá phức tạp so với những sinh hoạt của các loài khác. Con người có khả năng tiếp thu đầy đủ mọi loại thực phẩm và có khả năng biểu hiện đầy đủ mọi cách ăn.

Nên, con người cũng có khả năng tạo ra nhiều phước đức và cũng có khả năng tạo ra nhiều tội lỗi cho chính mình; con người vừa có khả năng che chởbảo hộ muôn loài trên trái đất, và con người cũng vừa có khả năng sát phạt và hủy diệt muôn loài trên trái đất.

Nên, hễ còn nghiệp thức sinh tử, thì ta còn phải lệ thuộc vào sự ăn để tồn tại. Muôn loài và ngay cả vạn vật cũng đều như vậy.

Những bậc có trí trong đời, họ biết chọn lựa thực phẩm để ăn và họ biết sử dụng cách ăn để tiêu thụ thực phẩm, nhằm nuôi dưỡng đời sống của họ một cách hợp lý.

Họ biết chọn lựa thức ăn trên nền tảng của đức tin và họ biết tiêu thụ thức ăn qua đức tin của chính họ.

Họ biết biến thức ăn đi kèm với đức tin và họ biết biến đức tin có mặt với thức ăn trong đời sống hiện thực của chính họ.

Họ tiêu thụ thức ăn mỗi ngày đi kèm với niệm. Nghĩa là họ nhìn sâu vào và ghi nhận những thực phẩm mà họ đang tiêu thụ hàng ngày để họ biết những gì nơi thực phẩm ấy đang giúp đỡ họ và những gì nơi thực phẩm ấy đang và sẽ gây thiệt hại cho chính họ.

Những thực phẩm nào gây thiệt hại cho đời sống của họ trong hiện tại và ngay cả tương lai, thì họ ghi nhận một cách rõ ràngtìm cách loại bỏ. Những thực phẩm nào giúp cho đời sống của họ có sự nhẹ nhàng, thanh thoát trong đời sống hiện tại và ngay cả tương lai, thì họ lại ghi nhận một cách rõ ràng và tìm đủ mọi cách để duy trì và phát triển.

Họ tiêu thụ thực phẩm bằng tất cả định tâm của chính họ. Trong khi tiêu thụ thực phẩm, thì thực phẩm với họ là một và họ với thực phẩm không phải là hai. Nhờ biết cách tiêu thụ thực phẩm như vậy, nên họ làm chủ được những xúc cảm trong lúc ăn, khiến cho những tham ái đối với những thực phẩm trong lúc ăn không có điều kiện để khởi lên và tâm họ hoàn toàn không bị kẹt vào những điều kiện liên hệ tiêu thụ thực phẩm. Họ hoàn toàntự do đối với những gì mà họ đang liên hệ ấy.

Và họ tiêu thụ thực phẩm đi kèm với sự quán chiếu thường trực của tuệ giác. Họ biết rõ những thực phẩm nầy không thể tự có mà có là do nhiều yếu tố khác tạo thành.

Thực phẩm ta đang tiêu thụ, chúng có từ đất, nước, gió, lửa, không khí; từ tâm thức và khả năng lao tác của mọi ngườimọi vật. Nếu ta thiếu tín tâm đối với Phật-Pháp-Tăng, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những phẩm vật nầy. Nếu ta thiếu sự nỗ lựctinh cần đối với tín tâm ấy, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những phẩm vật nầy. Nếu ta thiếu căn bản phẩm hạnh của đạo đức, đối với tín tâm ấy, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những thực phẩm nầy. Nếu ta thiếu định tâm đối với tín tâm ấy, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những thực phẩm nầy. Nếu ta thiếu tuệ tâm đối với tín tâm ấy, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những thực phẩm nầy. Nếu ta thiếu Bồ đề tâmtừ bi tâm đối với tín tâm ấy, thì ta không xứng đáng để tiêu thụ những thực phẩm nầy.

Trong khi ăn hay tiêu thụ thực phẩm, vị ấy do quán chiếu như vậy, mà tín tâm đối với Tam bảo luôn luôn hiện tiền, khiến khi vị ấy tiêu thụ thực phẩm, tâm tham ái của vị ấy vắng mặt nơi xúc giáccảm giác; khiến cho những tâm chấp thủ của vị ấy vắng mặt nơi xúc giáccảm giác; và khiến cho các tư niệm đối với tham áichấp thủ của vị ấy hoàn toàn vắng mặt. Không những những tham áichấp thủ của vị ấy hoàn toàn vắng mặt, mà những chấp thủ ngã và ngã sở cũng như những ý niệm về ngã và phi ngã; những ý niệm pháp và về phi pháp của vị ấy cũng hoàn toàn vắng mặt. Ngay khi ấy, vị ấy hoàn toàntự dogiải thoát trong khi ăn.

Vị ấy thực tập tiêu thụ thực phẩm như vậy mỗi ngày, khiến cho mỗi ngày đi qua là mỗi ngày làm cho hạt giống giải thoáttự do từ tâm thức của vị ấy lớn lên và thuần thục viên mãn.

Và bấy giờ vị ấy có thể tuyên bố:

Ngã sanh dĩ tận
Phạm hạnh dĩ lập
Sở tác dĩ biện
Bất thọ hậu hữu.
Nghĩa là:
Tái sanh tôi đã hết
Phạm hạnh đã lập thành
Điều đáng làm, làm xong
Không tiếp nhận đời sau.

Nên, người nào ăn hay tiêu thụ thực phẩm với tín tâm thanh tịnh, với sự tinh cần thanh tịnh, với niệm tâm thanh tịnh, với định tâm thanh tịnh, với tuệ tâm thanh tịnh, với bồ đề tâmtừ bi tâm thanh tịnh, khiến cho các loại thực phẩm không còn làm rung động và cuốn hút tâm thức của vị ấy. Vị ấy có khả năng đặt gánh nặng sinh tử xuống trong lúc ăn hay trong lúc đang tiêu thụ các thứ thực phẩm ở trên đời và bước những bước thong dong trên con đường giải thoátgiác ngộ.

Do đó, vị ấy ăn không còn ăn theo bản năng, không còn ăn theo nghiệp mà ăn theo bản nguyện. Ăn là để làm ruộng phước cho đời và để cho người đời kết duyên với bản nguyện làm thăng hoa cuộc sống.
Người nào biết ăn hay tiêu thụ thực phẩm như vậy, là người biết đặt gánh nặng sinh tử xuống cho chính mình ngay trong đời nầy và đời sau, và họ có khả năng làm nở những bông hoa xinh đẹp cho xã hội con người.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 43


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2655)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2340)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2653)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2432)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3245)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2313)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2408)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2531)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2466)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2191)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3044)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2642)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2702)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2982)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2551)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2583)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4079)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2767)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3054)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3299)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2498)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2799)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2993)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2865)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2604)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2626)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3186)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2594)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2680)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2741)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3262)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2045)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2816)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2899)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2935)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2700)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2507)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2775)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant