Ta
có thể sống tử tế với mọi người hay mọi người có thể sống tử tế với ta,
khi nào trong ta cũng như trong mọi người đều có chất liệu của tình yêu
chân thật.
Tình yêu giả dối làm cho ta thất vọng và
khổ đau bao nhiêu, thì tình yêu mang chất liệu chân thật làm cho ta hạnh phúc bấy nhiêu.
Đời sống không có tình yêu ta không có hạnh phúc đã đành, nhưng tình yêu của ta không trong sáng đối với đời sống, thì không những ta không có hạnh phúc mà còn lắm chuyện rắc rối và
khổ đau.
Bao nhiêu thanh niên nam nữ, họ đã đi đến với nhau và họ yêu nhau, nhưng cũng để rồi bấy nhiêu thanh niên nam nữ đã làm khổ đau cho nhau.
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
Nội dung của tình yêu có sự khao khát, chiếm hữu, riêng
tư và tình dục, thì tình yêu đó không thể là tình yêu tử tế, không thể gọi là tình yêu mang lại hạnh phúc cho người yêu và người được yêu, vì nó chỉ là một sự lường gạt của cảm giác và tri giác, nó chỉ là một ảo tưởng về hạnh phúc mà không phải là hạnh phúc, nên vị ngọt của tình yêu thì ít mà chất cay đắng và nỗi bất hạnh do nó đem lại thì nhiều.
Ta yêu mà ta không chiếm hữu, thì tình yêu của ta, không những có khả năng bảo toàn sự tự do cho ta, mà còn cho
cả người ta yêu nữa. Nó không những đem lại sự thoải mái cho ta mà còn đem lại sự thoải mái cho cả người ta yêu.
Nhìn sâu vào hạt giống của tình yêu không chiếm hữu, ta thấy nó có những chất liệu của tin tưởng, nhẹ nhàng, không mắc kẹt, xả kỷ, vui vẻ, đằm thắm và tử tế. Và càng nhìn sâu vào hạt giống nầy, ta thấy càng yêu là càng có hạnh phúc, càng yêu ta lại càng có khả năng chuyển hoá những hạt giống khổ đau trong ta, và càng đem lại niềm vui sống cho những người quanh ta.
Tình
yêu có chất liệu chiếm hữu, nó có gốc rễ từ những nhận thứcsai lầm và một bản ngã cố hữu hay là một cái tôi mù quáng, do đó nó đã tiết ra nhiều độc tố khổ đau, thất vọng và chết người.
Tình yêu không có chất liệu chiếm hữu, nó được khởi lên từ cách nhìn tương quan duyên khởi của một thiền sư hay
của một nhà thiền quán, đối với sự hiện hữu của chính mình và quanh mình.
Tình yêu có chất liệu chiếm hữu luôn luôn làm cho người yêu có tâm trạng bồn chồn, lo lắng, nghi ngờ, sợ hãi và kiếm tìm. Và khiến cho họ không có khả năng tự tại khi tiếp xúc với mọi hoàn cảnh cũng như đối với muôn loài.
Trái lại, tình yêu không chiếm hữu, thì làm cho tâm hồn của người yêu điềm đạm, sâu lắng, thảnh thơi, rộng lớn và cao vút. Và khiến cho người đó có khả năng tự chủ, khi tiếp xúc với mọi đối tượng.
Không những vậy, mà họ còn có khả năng hiến tặng sự không sợ hãi, an toàn và hạnh phúc đến cho muôn loài. Sự hiến tặng niềm vui không bao giờ để lại dấu tích của một sự hệ luỵ và sự
hiến tặng an toàn không để lại một di chứng sợ hãi, đó là tác dụng của tình yêu không chiếm hữu.
Khi nào đối diện với mọi sự hiện hữu, mà tình yêu không chiếm hữu hay tình yêu vô trúphát khởi trong ta, ta mới có khả năng sống hài hòa và tử tế với mọi người và mọi loài một cách
chân thật.
Hãy đến với nhau bằng cách nhìn tương quan duyên khởi, hãy đối xử với nhau bằng bàn tay mở rộng, hãy yêu nhau bằng trái tim không biên giới, và hãy nói với nhau bằng tất cả tấm lòng,
đó là những yếu tính tạo nên chất liệu tử tế trong cuộc sống của chúng ta.
Vậy, ta hãy thực tập và cùng sống tử tế với nhau, để thế gian
không còn là thế giannóng bức, để cánh bướm đi về giữa cõi bình yên và
trăng sao cùng mỉm cười, cám ơn đêm dài tăm tối! ■
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng tanhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
Một trong bốn chân lý mà Đức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
Đâu hay tất cả đều là sự công bằngtuyệt đối khi ta soi vào nhân duyênnghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứ và vị lai được giải thíchcặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
Sau khi quy y Tam bảo, trở thànhPhật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnh và nhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
Tất cả chúng ta vì bị vô minhche lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thứcsáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật.
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bóthủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc câyBồ Đề mà giác ngộthành Phật.
Nhờ chút công đứcphóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương yvô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.