Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đào giếng giữa sa mạc

14 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 15197)
Đào giếng giữa sa mạc


Trong khi trú tại thành Xá-vệ (Sāvatthi), đức Thế Tôn đã kể câu chuyện về một thầy Tỳ-kheo thối chí.

Chuyện kể rằng, trong khi đức Thế Tôn đang trú tại thành Xá-vệ, có một thiện nam thuộc gia đình quý tộc sống ở thành Xá-vệ đã đến tinh xá Kỳ Viên để nghe đức Thế Tôn thuyết giảng. Sau khi nhận thấy rằng chính các dục là nguyên nhân của khổ đau, vị này đã phát tâm xuất gia. Sau năm năm sống đời xuất gia, khi đã học xong hai điển mục thiết yếu và tu tập những pháp môn thiền quán, thầy nhận lấy nơi đức Thế Tôn một đề tại Thiền quán thích hợp với bản thân mình rồi đi vào một khu rừng và trải qua kỳ an cư mùa mưa ở đó.

Mặc dù nỗ lực hết mình trong suốt ba tháng, thầy cũng không thể hiển bày được một chút Tuệ quán nào. Vì thế thầy nghĩ, “đức Thế Tôn nói có bốn hạng người, ta chắc chắn thuộc hạng người thấp kém nhất. Ta nghĩ rằng, trong kiếp này không có Đạo hay Quả nào dành cho ta. Vậy ta sống ở rừng làm gì nữa? Ta sẽ trở lại sống với đức Thế Tôn, chiêm ngưỡng vẻ đẹp sáng ngời của thân Phật và lắng nghe pháp ngữ cam lồ của Ngài.”

 

Nghĩ thế, thầy đã quay trở lại tinh xá Kỳ Viên. Thấy vậy, các pháp hữu của thầy nói:

- Pháp hữu, chính thầy đã nhận được đề tài Thiền quán từ nơi đức Thế Tôn và đã ra đi sống đời độc cư của một Sa-môn. Vậy sao thầy lại có mặt nơi đây, vui thích sống với hội chúng? Có thể nào thầy đã đạt được sở nguyện tối hậu của một Tỳ-kheo, và rằng thầy sẽ không bao giờ biết đến tái sinh nữa?

- Thưa các pháp hữu, tôi không đạt được Đạo cũng không đạt được Quả, cảm thấy mình không có khả năng nên thối thất và quay trở lại đây.

- Pháp hữu, thầy đã hành động sai trái, đã thể hiện một tâm tính bạc nhược khi đã phát nguyện đi theo giáo pháp của bậc Đạo sư hùng lực. Hãy đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa thầy đến bạch với đức Thế Tôn.

Và rồi họ đưa thầy cùng đi đến gặp đức Thế Tôn.

Khi đức Thế Tôn biết họ đến, Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, các thầy đã đưa thầy Tỳ-kheo này đến đây trái với ý muốn của thầy này. Thầy này đã làm gì?

- Bạch đức Thế Tôn, sau khi đã phát nguyện đi theo giáo pháp chân thật tuyệt đối, thầy Tỳ-kheo này đã thối thất, từ bỏ đời sống độc cư của một Sa-môn và đã quay trở lại đây.

Nghe thế, đức Thế Tôn nói với thầy:

- Này Tỳ-kheo, như họ nói đấy, có thực là thầy đã thối thất tinh tấn không?

- Bạch đức Thế Tôn, thực đúng như vậy.

- Này Tỳ-kheo, tại sao như vậy khi chính thầy đã phát nguyện đi theo giáo pháp này? Tại sao thầy không thể hiện được một người ít muốn, biết đủ, độc cưkiên định, mà tự biểu hiện một người thiếu hẳn chí nguyện như vậy? Không phải vào đời quá khứ chính thầy là người đã từng tinh tấn, kiên định sao? Không phải chỉ một mình thầy, nhờ kiên gan bền chí mà khi ở trong sa mạc đã giúp cho người và bò của một đoàn lữ hành năm trăm cỗ xe kiếm được nước và được vui sướng sao? Bây giờ tại sao thầy lại thối thất?

Nghe những lời như vậy, thầy Tỳ-kheo này cảm thấy được khích lệ sách tấn. Còn các Tỳ-kheo, khi nghe nói vậy, đã thỉnh cầu đức Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, hiện giờ thầy Tỳ-kheo này từ bỏ tinh tấn thì chúng con biết rõ. Nhưng chúng con không biết được tại sao, chỉ bằng sự kiên gan bền chí của một người này mà người và bò kiếm được nước uống trong sa mạc và có được an lạc. Chỉ Thế Tôn là bậc Toàn trí biết được việc này. Xin kể cho chúng con việc đó.

- Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe. Đức Thế Tôn nói.

Sau khi gợi sự chú tâm của các Tỳ-kheo, đức Thế Tôn trình bày rõ ràng câu chuyện quá khứ mà do vì tái sanh họ không thể nhận biết được.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua của kinh thành Ba-la-nại (Benares), thuộc vương quốc Ca-thi (Kāsi), Bồ-tát thọ sanh vào một gia đình thương nhân. Khi đến tuổi trưởng thành, cùng với năm trăm cỗ xe, Ngài thường đi buôn bán khắp nơi. Một lần nọ, Ngài băng qua một sa mạc rộng sáu mươi dặm. Cát của sa mạc rất mịn, nắm vào là tuột khỏi tay. Khi mặt trời mọc, cát trở nên nóng như một cái giường than hồng và không một ai có thể đi được trên đó. Do đó, những người vượt qua sa mạc thường mang củi, nước, dầu, gạo… theo trên xe và chỉ đi vào ban đêm. Vào lúc bình minh, họ thường sắp những cỗ xe lại thành một vòng tròn để tạo thành một trại phòng ngự, với một tấm vải bạt căng rộng phía trên. Rồi sau bữa ăn sớm, họ thường ngồi suốt ngày trong bóng râm. Đến khi mặt trời lặn, họ dùng buổi tối. Rồi đến lúc cát đã nguội, họ thắng ách xe và lại tiếp tục hành trình. Đi trên sa mạc này thì giống như đi trên biển cả vậy. Người được gọi là “Người dẫn đường sa mạc” phải dẫn dắt đoàn người đi qua sa mạc bằng việc chiêm tinh của mình. Và đây là phương cách mà bấy giờ Bồ-tát đang sử dụng để đi qua sa mạc đó.

Khi đoạn đường phía trước chỉ còn khoảng bảy dặm nữa, Bồ-tát nghĩ: “Tối hôm nay chúng ta sẽ ra khỏi sa mạc này.” Vì thế, sau khi cho đoàn người ăn buổi tối xong, Bồ-tát bảo vứt bỏ hết củi, nước, rồi thắng xe và lên đường. Người dẫn đường ngồi trên một chiếc ghế ở cỗ xe đi đầu để chiêm tinh và bằng cách đó định hướng đi. Nhưng do quá lâu không ngủ nên Ngài bị kiệt sức và ngủ thiếp đi, với hậu quả mà Ngài không để ý đến là đàn bò đã quay đầu và đang đi trở lại con đường cũ. Đàn bò cứ đi suốt cả đêm như vậy. Cho đến khi rạng đông, người dẫn đường thức dậy, chiêm tinh và hét lớn:

- Hãy quay các cỗ xe trở lại gấp! Hãy quay các cỗ xe trở lại gấp!

Nhưng khi đoàn xe đã quay trở lại và xếp thành hàng thì trời bắt đầu hé sáng. Đoàn người kêu lên:

- Đây chính là nơi chúng ta đã cắm trại ngày hôm qua. Chúng ta đã bỏ hết củi và nước. Chúng ta nguy khốn đến nơi rồi.

Nói vậy rồi, họ tháo ách xe, xếp thành một vòng tròn và căng một tấm bạt ở phía trên, sau đó mỗi người tự nằm xuống dưới xe của mình trong nỗi tuyệt vọng. Bồ-tát nghĩ, “Nếu ta thoái chí chịu thua, mọi người sẽ chết.” Vì thế khi trời còn sớm và mát, Bồ-tát đi lui đi tới tìm cách, mãi cho đến khi nhìn thấy một lùm cỏ kusa. Ngài nghĩ, “Chắc ở dưới này có nước nên loại cỏ này mới mọc được”. Vì thế, Ngài bảo đem đến một cái thuổng và cho đào một cái hố ngay tại chỗ đó. Những thương nhân đào sâu xuống sáu mươi khuỷu tay, cho đến khi thuổng đụng phải một tảng đá. Khi ấy mọi người trở nên thối chí và không đào nữa. Nhưng Bồ-tát nghĩ rằng dưới tảng đá đó chắc chắn có nước, nên Ngài nhảy vào trong hố và đứng trên tảng đá. Cúi người xuống, áp tai vào tảng đá, Bồ-tát nghe thấy tiếng nước đang chảy bên dưới. Ngài leo lên và nói với một người hầu việc:

- Này bạn, nếu bạn thoái chí, tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại. Bạn hãy cố gắngcan đảm lên. Hãy cầm lấy cái búa tạ bằng sắt này, nhảy vào hố và đập vỡ tảng đá đó ra.

Vâng theo lời chủ, người này leo xuống hố và đập vỡ tảng đá, trong khi tất cả những người khác đều chán nản thối thất. Tảng đá chặn dòng nước vỡ nát ra và rơi sụp xuống. Dòng nước phun thẳng lên cao bằng cây cọ dừa. Mọi người uống nước và tắm. Sau đó họ chẻ những trục xe, ách xe và những thiết bị dư thừa khác để nấu cơm. Rồi sau khi ăn xong, họ cho đàn bò ăn. Đến lúc mặt trời lặn, họ cắm một cây cờ bên bờ giếng và đi đến nơi đã định. Ở đấy, họ đổi hàng hóa của mình để lấy những mặt hàng có giá trị gấp hai, gấp bốn lần, và sau đó quay trở lại nhà. Ở đấy, họ sống trọn đời, và đến khi mạng chung đã tái sanh theo hành nghiệp của mình. Còn Bồ-tát, sau khi trải qua một đời làm việc bố thíthực hành các thiện nghiệp, đến khi mạng chung cũng đã thọ sanh theo hành nghiệp của mình.

* * *

Khi thuyết xong pháp ngữ này, đức Phật Chánh Đẳng Giác, bậc Toàn Trí đã đọc lên bài kệ này:

Không thoái chí, đào sâu con đường cát
Cho đến khi tìm thấy nước trên đường.
Cũng như thế Tỳ-kheo nên tinh tấn
Tìm tịnh tâm, không thoái chí chán chường.

Kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn tuyên thuyết Tứ thánh đế. Vào lúc kết thúc các Thánh đế, thầy Tỳ-kheo thối thất tinh tấn này đắc được Thánh quả A-la-hán.

Sau khi kể xong hai câu chuyện và nối kết cả hai lại với nhau, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

– Vào thuở đó, Tỳ-kheo thối thất tinh tấn này là chàng trai giúp việc, kiên nhẫn đập vỡ tảng đá và lấy nước cho tất cả mọi người; đệ tử của Phật là đoàn người lái buôn còn lại, còn ta chính là người trưởng đoàn.

Lời bàn:

Siêng năng, bền chí, kiên định là những điều kiện không thể thiếu đối với những người mong muốn đạt đến thành công. Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng, thiếu ý chí.

Trong đường đạo cũng thế, sẽ không có giác ngộ giải thoát dành cho những người giải đãi, thiếu tinh tấn dù người đó là một người có đủ tài trí. Tinh tấnyếu tố quan trọng như vậy nên nó được coi là một Đại thiện địa pháp trong số 75 pháp của Nam truyền, là một Thiện tâm sở trong số một trăm pháp của Đại thừa.

Trong cuộc sống, người ta thường thối chí vì do thiếu tự tin vào bản thân mình, hoặc do gặp phải những chướng ngại, hoặc do không có niềm tin vào công việc mà mình đang làm. Mỗi khi ta thấy mình không đủ khả năng để thực hiện một công việc nào đó, và nghĩ rằng công việc mà ta đang làm không mang lại một kết quả tốt đẹp, ta sẽ dễ dàng sinh tâm thối thất.

câu chuyện này, phần duyên khởi, thầy Tỳ-kheo kia đã thối chí, không tinh tấn tu tập nữa vì nhận thấy mình không đủ khả năng đạt đến Đạo và Quả, là những mục đích mà người xuất gia hướng đến. Bởi vì tự ti, không tin vào năng lực bản thân nên thầy đã chán nản và quay trở lại với đức Thế Tôn, từ bỏ chí nguyện ban đầu là vào rừng sống đời độc cư, tìm cầu giải thoát.

Ở phần chuyện quá khứ, nguyên nhân của sự thối chí lại do những chướng ngại ở bên ngoài gây ra, và cũng do thiếu niềm tin vào công việc mà mình đang làm. Những thương nhân này đã chán nản, mất hết nghị lực trong việc đào giếng tìm nước khi gặp phải một tảng đá lớn. Họ không đủ sức để vượt qua chướng ngại đó một phần do thiếu kiên định, một phần vì không thấy được công việc mà họ đang làm sẽ đưa đến đâu. Người thương nhân trưởng đoàn không nản chí bởi vì Ngài thấy được công việc mình đang làm, bởi vì Ngài nhận thức được rằng sự nản chí của mình sẽ đưa đến sự diệt vong của đoàn người, và bởi vì Ngài cũng nhận biết rằng dưới tảng đá kia chắc chắn sẽ có nước. Bởi vậy, biết rõ công việc, có niềm tin vào công việc là yếu tố giúp cho người ta có được sự tinh tấn trong khi thực hiện công việc của mình. Và sự tinh tấnyếu tố giúp người ta thành công trong cuộc sống. ☸

Dịch và lời bàn: Quang Sơn

* Tiền thân Vaṇṇpatha, số 2, bản Anh ngữ.

Nguồn: Tập san Pháp luân số 07


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2211)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2635)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2516)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2320)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2632)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2415)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3226)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2516)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2523)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2180)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2568)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3032)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2633)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2683)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2951)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2525)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2558)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4056)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2760)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3032)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2276)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2492)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2789)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2981)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2855)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3176)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2370)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2467)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2670)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2723)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3250)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2545)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2120)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2579)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2035)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2805)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2881)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2915)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2497)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2762)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant