Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ Hội Chùa Viên Đức - Đức Quốc

11 Tháng Sáu 201422:53(Xem: 9998)
Lễ Hội Chùa Viên Đức - Đức Quốc

Lễ Hội Chùa Viên Đức-Đức Quốc

Trần thị Nhật Hưng

 

blank

 Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp như cá mòi, có người đã bắt đầu “lên dây đàn” mở màn cho buổi hòa tấu. Nhìn quanh không còn chỗ nào trống để ngả lưng. Đang đứng ngơ ngác ở hành lang cầu thang, tôi định trải túi ngủ nằm bừa xuống, có chị bạn đạo vừa chuyển mình nhích qua một bên, vừa cất tiếng: “Chị này, ghé nằm bên tôi đi, thấy chị ôm ốm don người còn...nhét vào được, chứ...béo, thì...không có chỗ đâu nhé!”. Không chần chờ, tôi “check- in” ngay vào...khách sạn “không sao” này, và mỉm cười cho câu chào đón mời tôi...dễ thương như vậy đó của “nhân viên” phòng tiếp nhận. Tôi chợt nhớ đến lời “khen” của một vị sư bên Mỹ: “Phật tử Âu Châu chịu thương chịu khó ham tu, chứ các nước khác tu...sang lắm!”. Điều đó cũng đúng thôi, một phần tư thế kỷ tu học qua các khóa Âu Châu ăn chay nằm đất cũng quen rồi và căn cơ phước báu của Phật tử Âu Châu chỉ có thế thôi. Ngày xưa Đức Phật còn bỏ cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, giường êm nệm ấm để vào rừng tu cơ mà, thì đối với Phật tử Âu Châu nhằm nhò gì mấy cái...lẻ tẻ không đáng quan tâm này. Điều họ quan tâm là đúng 6 giờ sáng hôm sau, ai nấy đã thức dậy tập trung nơi chánh điện công phu khuya rồi sau đó đúng 9 giờ 30 để nghe Hoà thượng Phương Trượng giảng về “Thế nào là chúng sanh” cho Phật tử hiểu sơ qua để chuẩn bị tinh thần tham dự buổi “Đại Trai Đàn Chẩn Tế” vào 14 giờ chiều cùng ngày.

blank

Chúng sanh là ai? Theo lời Hoà Thượng là những loài khởi từ lòng tham mà ra: tham dục. Từ hữu tình: Con người, đến loài vô tình: Cây cỏ. Loài nào cũng ham sống sợ chết. Tham ăn, uống, ngủ nghỉ và tham đủ thứ...Lòng tham thì không chỉ riêng loài hữu tình hay vô tình mà ngay cả chư thiên ở... cõi trên cũng vẫn có lòng tham để rồi phải chịu cảnh như tiên bị đọa. Đọa rồi lại tu, tu để trở về lại cõi tiên. Cái vòng luẩn quẩn cứ như thế đấy. Nhưng được có cơ hội tu là điều may mắn, chứ loài súc sanh, ngạ quỉ, a tu la... đọa địa ngục rồi thì khó tu lắm để chuyển nghiệp. Hiểu như vậy, thì chúng ta không sợ trước cái chết. Vì chết là trạng thái chuyển nghiệp. Và nghiệp chuyển tốt, xấu tùy vào cách “tu” của ta hiện tại. Những ân oán giang hồ, cũng theo đó mà tìm đến nhau qua nhân quả báo ứng thể hiện trong sự kết hợp cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, hàng xóm...v.v... Và Hòa Thượng đã khuyên Phật tử lấy kinh nghiệm của gà ấp trứng, nếu ấp không đều, trứng nào nằm ngoài không đủ nhiệt độ sẽ ung thối không nở thành con; thì Phật tử chúng ta, học đạo, hành đạo, cũng nên “ấp” cho đều, không nên bỏ công phu tu tập nào mới có thể tròn đầy “nở” thành “con” (con người) được.Ví dụ, nói chi đâu xa, chỉ ngũ giới thôi: không sát sanh, tà dâm, trộm cắp, vọng ngữ, say sưa bia rượu; chúng ta chỉ “ấp” được 4 giới, còn một giới chúng ta...quậy đẹp thì cũng ung thối thôi hà.

Rồi khi, những ai sau khi tắt thở, trong vòng 8 tiếng thần thức vẫn còn trong thân thể để cảm nhận và nhận biết mọi sự việc xảy ra xung quanh, sau đó sẽ xuất hồn theo nghiệp mà đầu thai. Sau 49 ngày không đầu thai được, linh hồn cứ vất vưởng, đó chính là cô hồn vậy.

 

Lần này, hôm nay, nhân lễ Phật Đản 2638, khánh thành Cổng Tam QuanQuan Âm Các của tu viện Viên Đức, cùng nhận thấy thời gian gần đây vô số những vụ tai nạn chết tập thể, hết máy bay, tới tàu thủy, sóng thần, bão tố, chiến tranh, bao oan hồn uổng tử bị mất xác, không nơi nương tựa, Hòa Thượng đã tổ chức giới đàn thật lớn để cầu nguyện những hương hồn sớm siêu thoát trong Đại Trai Đàn Chẩn Tế vào lúc 14 giờ cùng ngày.

blank

 

Lễ chẩn tế rất qui mô công phu kéo dài đúng 5 tiếng rưỡi đồng hồ, qua sự chủ sám của Thượng Tọa Thích Hoằng Khai đến từ Na Uy cùng một số Chư Tôn Đức.

Lễ chẩn tế bắt nguồn từ thời Đức Phật hiện tiền. Từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa rồi đến Việt Nam.

Ngồi suốt 5 tiếng rưỡi đồng hồ, chân tay ê ẩm, nhưng bù lại được chứng kiến nghi lễ vô cùng ngoạn mục, chiêm ngưỡng bàn thờ thiết kế trang nghiêm đẹp mắt, tai được nghe thanh nhạc Phật Giáo qua những tiếng khánh, linh hòa điệu cùng lời tán (tụng kinh) của Thầy chủ sám trong sắc phục áo mão của Ngài Địa Tạng, quả là một buổi đáng ghi nhớ. Giọng Thầy Hoằng Khai rổn rảng, âm hưởng mạnh, nếu so với giọng ca sĩ thì phải thuộc hàng danh ca. Tôi chợt có sự so sánh ngộ nghĩnh. Vì rõ ràng, người cư sĩ bình thường, cũng giống như ca sĩ “cây nhà lá vườn” cất giọng lên nghe biết liền, đã lạc giọng còn yếu xìu, mà sức ca hay tụng cũng không thể kéo dài chừng đó tiếng đồng hồ được. Tôi phục lăn quí Thầy, nhất là Thầy chủ lễ. Thầy cất tiếng tán trầm bổng, tay còn bắt ấn “làm phép” quơ qua quơ lại dẻo quẹo rất linh động, thỉnh thoảng cầm cục gỗ nện xuống bàn nghe cái “cạch” làm như đang thị uy những cô hồn nhốn nháo tranh giành vậy.

 Điều mà tôi vô cùng thích thú là lúc, cùng với lời niệm chú, từng chặp, Thầy nắm từng nắm gạo, bánh kẹo lẫn tiền cắc, tiền giấy cuộn tròn, tung xuống...khán giả. Mọi người quơ tay lên chụp cùng nhặt những đồng tiền vương vải dưới đất gợi tôi nhớ lại thuở ấu thơ, tôi cùng con nít hàng xóm từng làm “cô hồn” tranh nhau nhặt những bánh kẹo, tiền cắc do mẹ tôi thường cúng vào rằm tháng 7. Bây giờ...đã mấy chục năm rồi, tôi tìm thấy lại kỷ niệm nơi đây, tiếp tục làm...cô hồn để nhặt những món Thầy ném xuống. Ôi, kỷ niệm xa xưa ngập tràn, lòng lâng lâng vui sướng biết chừng nào!

Buổi chẩn tế kết thúc đúng 19 giờ 30 sau khi Thầy chủ lễ hướng dẫn mọi người di chuyển ra trước Cổng Tam Quan đốt những bài vị ghi tên người đã khuất cùng cầu nguyện hương hồn những ai còn vất vưởng sớm siêu thoát.

Năm tiếng rưỡi đồng hồ cho chẩn tế, tay chân thật ê ẩm nhưng vẫn không cản trở lòng tín tâm cầu đạo của Phật tử Âu Châu để nửa tiếng sau lại vào chánh điện ngồi tiếp (ngồi bệt) để nghe thuyết giảng.

Vì số lượng Phật tử khá đông, giảng sư cũng nhiều, Hòa Thượng Phương Trượng đã chia thành ba lớp. Lớp trong chánh điện do tiến sĩ Seelawansa, tu sĩ Tích Lan kiêm giáo sư đại học ngành tôn giáo học tại thủ đô Wien Áo quốc đảm nhiệm. Lớp do Thầy Hạnh Nguyện đến từ Thái Lan phụ trách. Thầy sẽ kể chuyện Thái Lan trong Trai Đường của Chư Tăng. Lớp ngoài trời, dưới lều vải dành cho ai có tâm hồn nghệ sĩ sẽ do Thầy Thích Viên Giác (Phi Long) vừa là ca sĩ vừa là nhạc sĩ hướng dẫn nói về ý nghĩa của “Xuân trong ta”.

Thân tôi đâu thể xẻ làm ba, nên tôi chọn lớp trong chánh điện để nghe sư Tích Lan với hy vọng tìm thấy sự mới mẽ khác lạ từ vị sư ngoại quốc này.

blank

 

Quả là giáo sư đại học có khác, trong cung cách khiêm cung và giọng nói từ tốn nhẹ nhàng điềm đạm dễ đi vào lòng người, Thầy Seelawansa giảng bằng tiếng Đức với sự thông dịch lưu loát tuyệt vời “không thể nghĩ bàn” của Đại Đức Thích Hạnh Giới, trụ trì chùa Viên Giác, Đức quốc đã đem lại cho đạo tràng một không khí vừa trang nghiêm vừa thân thiện.

Trước khi vào bài giảng, Thầy Seelawansa nói sơ về nhân duyên biết đến Phật giáo Việt Nam qua hai Thầy: Hoà Thượng Thích Minh TâmHoà Thượng Thích Như Điển (Nhị vị từng lãnh giải danh dự người có công phát triển Phật Giáo tại xứ người do chính phủ và Giáo Hội Tăng Già Tích Lan trao tặng). Và để tưởng nhớ đến người bạn thân quí vừa khuất, Thầy Seelawansa xin vài phút để cùng nhau mật niệm đến cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm.

Sau đó bài giảng được bắt đầu không ngoài những điều mà Phật tử thường nghe thường thấy, nhưng...ít hành hay chưa hành đấy thôi. Đề tài không cao vời, Thầy nhắc nhở Phật tử không nên chấp vào danh từ rồi tưởng tượng mông lung mà nên hiểu (giác ngộ) để thực tập ngay chính cuộc sống ta sinh hoạt hằng ngày. Có mấy ai thức tỉnh (tỉnh thức) để nhận biết ta đang làm gì hay chỉ hành động theo thói quen và xem đó là chuyện tự nhiên bình thường. Nếu thói quen đó lành thì không vấn đề, nếu thói quen sát sanh coi như chuyện hiễn nhiên thì vô cùng nguy hiểm. Tại Việt nam ngày nay, chỉ nội cái ăn mà thiên hạ cũng bày ra nhiều cách ăn vô cùng tàn nhẫn để rồi xem đó là chuyện bình thường. Nuốt trọng những con đuôn (con sâu dừa) còn ngoe nguẩy, cá đang bơi bỏ vào chảo dầu gọi là chiên xù, hay nồi canh chua cá kèo thả ngay cá còn sống vào nồi nước lèo đang sôi, ăn não con khỉ còn sống hoặc trong một lễ hội rước heo tế thần, cả làng “hồ hỡi” công kênh một con heo đem về đền rồi phanh thây nó máu me lai láng giữa bao tiếng hò reo, có người còn lấy máu heo quẹt vào người cầu may mắn ...v.v...và v.v... đã là hậu quả gây nên tệ nạn xã hội ngày nay vô cùng độc ác, vợ đốt chồng, con giết cha mẹ, cháu hại ông bà chỉ từ một chuyện vô cùng nhỏ nhặt, con người khứa cổ nhau một cách dễ dàng, không nương tay bắt nguồn từ những điều do thói quen “thấy” rồi cho là bình thường đó. Vì lẽ đó, là Phật tử, Thầy khuyên chúng ta nên “sống trong tỉnh thức” quán sát hành động mình làm vì tất cả mọi hành động đều bắt nguồn từ tâm, do tâm chỉ đạo, dẫn dắt, chi phối. Thế thì, muốn biết tâm ra sao, chúng ta nên thực tập thiền quán. Và thiền quán là thế nào? Hãy dành vài phút ngồi yên theo dõi hơi thở, hít vào thở ra rồi định tâm xem tâm ở đâu. Nếu thấy “nó” còn lang thang “du lịch” về quá khứ, hay đang vọng tưởng đến tương lai thì hãy nhiếp tâm kéo...nó về hiện tại, cột chặc nó lại không cho mông lung nữa để biết rằng nó đang hiện hữu và đang làm gì trong lúc này. Một người thái rau, nếu tâm ý thức rằng đang thái rau thì sẽ không cắt trúng tay. Hoặc cách khác nữa là trì giới. Trì 5 giới cấm. Ta không muốn bị mất đồ thì đừng lấy đồ người khác. Ta không muốn mất vợ, mất chồng thì đừng tà dâm nhây vào nhà người ta...Thầy giảng chỉ đơn giản vậy thôi mà nghe sao thật thấm thía. Thầy còn nhấn mạnh, giáo lý nhà Phật không chỉ dành riêng cho Phật tử mà cho tất cả muôn loài chúng sanh, bất cứ tôn giáo nào, nếu những ai có duyên với Phật, biết đến giáo lý nhiệm mầu của Đức Phật rồi thực tập sẽ được lợi lạc cho chính bản thân và còn ảnh hưởng tốt những người xung quanh, liên hệ với mình nữa.

Cùng đến tu viện Viên Đức lần này, Thầy Seelawansa có dắt theo hai đệ tử người Áo. Họ muốn tìm hiểu văn hoá, bản sắc và cách tu tập của người Việt Nam như thế nào? Một điểm nổi bật khiến họ chú ý, người Việt Nam hay cười, vui vẻ trong sinh hoạt. Nét mặt ai cũng rạng rỡ dù đang trong công việc tất bật, căng thẳngđặc biệt nữa hoan hỉ khi bố thí, cúng dường làm công quả. Nhưng, (chữ “nhưng” mới quái ác đây) vuốt má bên phải xong thì tát (dù nhẹ) má bên trái. Người Việt luông tuồng, không nghiêm chỉnh khi tu tập. Muốn đi là đi, muốn nói là nói dù đang trong buổi lễ. Khác với tây phương, khi họ tu tập, họ ngồi...một đống, không cựa quậy hay nhúc nhích, đến và đi đúng giờ qui định! Nhưng họ lại thiếu nụ cười, có lẽ nghiêm túc quá mà mặt mày họ...chằm dằm chăng?! Thôi thì Âu Á nên bổ sung cho nhau để cả hai đều ngon lành, không chê vào đâu được.

 blank

 

Ngày chủ nhật 1 tháng 6 trọng điểm của buổi lễ Phật Đản, khánh thành Cổng Tam QuanTôn tượng Quan Âm Các không khí khởi sắc nhộn nhịp tưng bừng hẳn lên. Tờ mờ sáng sau khi công phu khuya, điểm tâm như thường lệ, mọi người nô nức, ai nấy chỉnh tề xiêm y. Phật tử thì áo tràng lam, Tăng Ni trang nghiêm pháp phục màu vàng; người trong ban tổ chức, đàn ông áo vest đen, cà vạt; phụ nữ trong những chiếc áo dài đủ màu sắc như những cánh bướm rực rỡ “bay lượn” khắp sân chùa. Đoàn lân cũng xôn xao chuẩn bị, màu sắc cũng hực hỡ không kém. Thời tiết hôm đó thật đẹp. Mặt trời bên kia hàng cây dường như đang...toét miệng cười chiếu xuống trần gian những tia nắng rực sáng như muốn góp phần chung vui với mọi người. Những đoàn xe Bus, xe hơi khắp nơi đổ về. Người đông như kiến cỏ.Thật là một ngày hội tưng bừng “dzui quá xá là dzui” cho bõ những tháng ngày buồn tẻ, lặng lẽ, âm thầm cố hữu của Âu Châu.

 

blank

Đúng giờ khai mạc, đoàn lân dẫn đâù theo sau là 32 vị chư Tôn Đức Tăng Ni với sự chứng kiến của đồng bào Phật tử. Cổng Tam Quan được cắt băng khánh thành, tiếp đến là lễ sái tịnh (kéo vôn phủ) tôn tượng Quan Thế Âm Bồ Tátlễ Phật Đản.

Lễ Phật Đản vẫn như thường lệ. Sau thời kinh mừng Đản sanh, là Đạo Từ của Hoà Thượng Phương Trượng và lần này có thêm Thượng Tọa Seelawansa. Chương trình thêm phần khởi sắc do sự đóng góp văn nghệ của ban Ca Nhạc chùa Phổ Bảo đến từ München với vài bài hợp ca mừng Đản sanh rất đặc sắc; cùng lời hát, tiếng đàn Violon của gia đình Đạo Hữu Thiện Đức. Gia đình bác Thiện Đức vốn người Việt ở Lào theo truyền thống Nam Tông. Gia đình luôn có thói quen, một thói quen rất dễ thương, sinh nhật ông bà cha mẹ thường tổ chức tại chùa và quà mừng sinh nhật không chỉ riêng cho nhân vật chính mà còn thêm tứ vật dụng dâng lên chư Tôn Đức Tăng Ni hiện tiền cùng hai cây vàng, cây bạc gắn đầy tịnh tài; một cây cúng dường Tam Bảo và một cây dành riêng Hòa Thượng Phương Trượng, người mà họ quí kính để hồi hướng công đức đến thân nhân và mọi loài chúng sanh.

 

blankBuổi lễ đã kết thúc sau khi tắm Phật, cúng tiến chư hương linh và lễ tác bạch cúng dường của các phái đoàn, chi hội.

Sau bữa cơm trưa, mọi người ra về với một tâm trạng nhẹ tênh, như gột rửa bao phiền muộn của đời sống trần tục cho theo dòng nước tắm Phật mà trôi hết.

Lời cuối cho bài này, con kính nguyện dâng lên chư Tôn Đức Tăng Ni cùng đồng bào Phật tử khắp nơi lời chúc dồi dào sức khoẻ và xin hồi hướng công đức đến muôn loài chúng sinh cầu thành Phật đạo.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Trần Thị Nhật Hưng

2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2192)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2987)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2589)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4086)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3063)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3304)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2049)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant