Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩ Về Tánh Không

23 Tháng Chín 201412:32(Xem: 10928)
Nghĩ Về Tánh Không

NGHĨ VỀ TÁNH KHÔNG

Đại sư Shunryu Suzuki
Nguyễn Văn Nghệ dịch



nghi-ve-tanh-khongShikantaza(1)thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau. Nhưng trong Phật giáo, cả hai đều là ý tưởng về hữu. Tánh Không chúng tôi muốn bàn đến ở đây không giống như bạn có thể nghĩ về nó. Bạn không thể đạt đến một sự hiểu biết đầy đủ về tánh Không với tư duy hay với cảm xúc của bạn. Đó là lý do tại sao chúng ta tập ngồi thiền.

Chúng tôi có một từ là shosoku để nói về cái cảm giác của bạn khi bạn nhận được một lá thư từ nhà gởi đến. Dù cho là không có hình ảnhcụ thể nhưng bạn cũng biết đuợc một điều gì đó về nhà mình, mọi người  ở nhà đang làm gì và cây hoa nào đang trổ bông. Đó là shosoku. Mặc dù chúng ta không có thư từ liên lạc gì với thế giới tánh Không nhưng chúng ta cũng mơ hồ biết được những gì đang xảy ra trong thế giới đó – và đó có thể gọi là sự giác ngộ. Khi bạn nhìn thấy một bông hoa đào nở hay nghe âm thanh một viên sỏi va vào một cành tre thì đó là tin tức đến từ thế giới tánh Không.

Ngoài cái thế giớichúng ta có thể miêu tả ra, còn có một loại thế giới khác nữa. Tất cả những sự miêu tả về thực tại đều là những lời diễn đạt hạn chế về thế giới tánh Không. Tuy nhiên chúng ta lại trói buộc mình vào những sự miêu tả đó và nghĩ rằng chúng là thực tại. Đó là một sự sai lầm vì cái được miêu tả không phải là thực tính đích thực và khi bạn cho rằng đó là thực tại thì ý tưởng của riêng bạn đã can dự vào đó. Đó là một ý niệm thuộc ngã tính.

Nhiều Phật tử mắc phải sai lầm này. Chính vì vậy mà họ chấp vào kinh điển hay những lời Phật dạy. Họ nghĩ rằng những lời Phật dạy là quý giá nhất và cách gìn giữ những lời Phật dạy là ghi nhớ những gì Ngài nói. Nhưng những gì Đức Phật nói chỉ là tin tức đến từ thế giới của tánh Không, chỉ là một gợi ý hay là một chút giúp đỡ của Ngài. Nếu có một ai khác đọc ngôn từ đó thì có thể là nó không có ý nghĩa gì cả. Bản chất những lời của Đức Phật là vậy. Để hiểu được những lời Phật dạy, chúng ta không thể trông cậy vào trí óc suy nghĩ thường ngày của chúng ta. Nếu bạn muốn đọc được tin tức đến từ thế giới Phật, bạn cần phải hiểu thế giới của Phật.

Làm “trống không” một tách nước không có nghĩa là uống cạn cái tách đó. Làm “trống không” có nghĩa là có được một trải nghiệm thuần khiết, trực tiếp, không dựa vào hình dáng hay màu sắc của sự vật. Thế cho nên trải nghiệm của chúng ta hoàn toàn trút bỏ hết những định kiến của chúng ta, ý tưởng của chúng ta về sự vật, ý tưởng của chúng ta về lớn hay nhỏ, tròn hay vuông. Tròn hay vuông, lớn hay nhỏ không thuộc về thực tính mà chỉ là những ý niệm. Làm cho “trống không” cái tách nước là như vậy đó. Chúng ta không có ý niệm gì về nước cả mặc dù chúng ta nhìn thấy nước.

Khi chúng ta phân tích trải nghiệm của chúng ta, chúng ta có những ý tưởng về thời gian hoặc không gian, lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ. Cần phải có một loại thước đo nào đó và chúng ta trải nghiệm các sự vật với nhiều loại thước đo khác nhau trong đầu chúng ta. Tuy nhiên, sự vật tự nó không có thước đo nào hết. Đó là cái chúng ta cộng thêm vào thực tại. Bởi vì chúng ta luôn luôn sử dụng một cái thước đo và lệ thuộc rất nhiều vào thước đo ấy nên chúng ta nghĩ là cái thước đo có thực. Nếu nó có thực thì ắt hẳn nó hiện hữu cùng các sự vật. Sử dụng một cái thước đo bạn có thể phân tích một thực tính thành nhiều thực thể, lớn hoặc nhỏ và ngay khi chúng ta khái niệm hóa một cái gì thì cái đó đã trở thành một trải nghiệm chết.

Chúng ta làm trống không những ý tưởng về lớn hay nhỏ, tốt hay xấu ra khỏi trải nghiệm của chúng ta vì cách đo lường chúng ta sử dụng thường dựa vào bản ngã. Khi bạn nói tốt hay xấu, cái thước đo là chính bạn. Và thước đo ấy không phải chỉ có một. Mỗi người có một thước đo khác nhau. Vì vậy tôi không nói là thước đo luôn luôn sai, nhưng chúng ta có khuynh hướng dùng cái thước đo thuộc ngã tính của chúng ta khi chúng ta phân tích hay có ý tưởng về một điều gì đó. Cái phần bản ngã đó cần phải trút bỏ hết đi. Muốn trút bỏ hết phần đó đi thì chúng ta phải tập ngồi thiền và sẽ trở thành quen với việc chấp nhận sự vật như nó vốn vậy, không có ý nghĩ gì về lớn hay nhỏ, tốt hay xấu.

Khi họa sĩ hay văn sĩ muốn diễn tả trải nghiệm trực tiếp của họ, họ có thể vẽ hay viết. Nhưng nếu trải nghiệm của họ rất mạnh mẽ và thuần khiết, họ có thể  từ bỏ mọi nỗ lực miêu tả trải nghiệm đó, “Ôi thôi! đành chịu”. Chỉ vậy thôi.

Tôi muốn làm một khu vườn thu nhỏ quanh nhà tôi, nhưng khi tôi đi đến con suối, nhìn thấy những tảng đá tuyệt vời và dòng nước chảy, tôi từ bỏ ý định ấy. “Không, tôi sẽ không bao giờ cố gắng tạo một khu vườn có đá tảng. Tốt hơn là tôi nên dọn sạch con suối Tassajara, vớt hết giấy vụn và những cành cây gãy trong con suối lên.

Trong thiên nhiên có cái đẹp vượt ra ngoài cái đẹp. Khi bạn nhìn một phần của nó, bạn có thể nghĩ nên xoay tảng đá này về phía này, tảng đá kia về phía khác và rồi nó sẽ thành một khu vườn hoàn chỉnh. Bởi vì bạn giới hạn cái thực tính đích thực bằng cách sử dụng cái thước đo mang ngã tính nhỏ bé của bạn cho nên mới có khu vườn đẹp và khu vườn không đẹp và bạn muốn thay đổi một vài tảng đá. Nhưng nếu bạn nhìn thấy bản thân sự vật như nó vốn vậy với một cái tâm thoáng đạt hơn thì sẽ không cần phải làm gì cả.

Bản thân sự vật vốn là trống không nhưng bởi vì bạn cộng thêm vào nó một cái gì đó, nên bạn làm hỏng thực tại. Do đó nếu ta làm cho sự vật trống không ta sẽ không làm hỏng chúng. Khi bạn ngồi theo cách shikantaza, bạn đừng để cho âm thanh làm cho xao nhãng, đừng để cho trí não vận động. Có nghĩa là đừng dựa vào bất kỳ một giác quan nào hay là vào trí óc của bạn và bạn chỉ tiếp nhận tin tức đến từ thế giới của tánh Không. Đó là shikantaza.

Làm cho trống không không phải là từ chối. Thông thường, khi chúng ta từ chối một cái gì, chúng ta muốn thay thế cái đó bằng một cái khác. Khi tôi từ chối cái tách màu xanh thì có nghĩa là tôi muốn cái tách màu trắng. Khi bạn tranh luận và từ chối ý kiến của một người khác, có nghĩa là bạn muốn người đó phải chấp nhận ý kiến của bạn. Thông thường chúng ta làm như vậy. Nhưng bây giờ chúng ta làm khác đi. Bằng cách làm trống không phần phụ thuộc những ý niệm quy ngã của chúng ta, chúng ta làm thuần khiết việc quan sát sự vật của chúng ta. Khi chúng ta nhìn thấy và chấp nhận sự vật như chúng vốn vậy, chúng ta không cần phải thay thế cái này bằng cái khác. Đó là ý nghĩa của việc làm trống không các sự vật.

Nếu chúng ta làm trống không các sự vật để cho chúng như chúng vốn vậy thì lúc đó mọi việc sẽ tốt đẹp. Khởi đầu, các sự vật có liên quan với nhau và chỉ là một, và như là một hữu thể, nó tự mở rộng ra. Để cho nó mở rộng ra, chúng ta làm trống không các sự vật. Khi chúng tathái độ này thì chúng tatôn giáo mà không cần ý tưởng gì về tôn giáo cả. Khi chúng ta không có thái độ này trong việc thực hành tôn giáo thì tôn giáo tự nhiên trở thành thuốc phiện. Làm thuần khiết trải nghiệm của chúng taquan sát các sự vật như chúng vốn vậy tức là hiểu được thế giới của tánh Không và và hiểu được lý do tại sao Đức Phật đã để lại quá nhiều lời dạy như thế.

Khi chúng ta thực hành shikantaza, chúng ta không tìm kiếm gì hết, bởi vì khi chúng ta tìm kiếm một điều gì thì một ý niệm thuộc ngã tính sẽ xen vào. Sau đó chúng ta cố gắng đạt được một điều gì đó để đưa cái ý niệm thuộc ngã tính đi xa hơn. Đó là điều bạn đang làm khi bạn cố gắng, nhưng sự cố gắng của chúng ta là để loại bỏ cái hoạt tính quy ngã. Đây là cách chúng ta làm thuần khiết trải nghiệm của chúng ta.

Chẳng hạn như bạn đang đọc sách, vợ bạn có thể nói, “Anh uống một tách trà nhé?”. Bạn có thể trả lời “Ôi, anh đang bận. Đừng làm phiền anh”. Khi bạn đang đọc sách kiểu như vậy, tôi nghĩ bạn nên cẩn thận. Bạn nên sẵn sàng nói, “Uống trà bây giờ thật là tuyệt. Cho anh xin một tách trà đi”. Rồi bạn ngừng đọc sách và uống trà. Sau khi uống trà xong, bạn tiếp tục đọc sách.

Trái lại, thái độ của bạn là, “Bây giờ anh đang rất bận!”. Như vậy là không được tốt lắm, bởi vì lúc đó trí óc của bạn không phải thực sự đang hoàn toàn hoạt động. Một phần trí óc bạn đang hoạt động tích cực nhưng phần khác thì không. Bạn có thể đang mất thăng bằng trong hoạt động của bạn. Nếu hoạt động đó là đọc sách thì có thể không sao cả, nhưng nếu bạn đang viết thư pháp mà tâm trí bạn không ở trong tình trạng trống rỗng, công việc của bạn sẽ nói cho bạn biết, “Tôi không ở trong trạng thái trống rỗng”. Vì vậy bạn nên dừng lại.

Nếu bạn là người học thiền, bạn nên hổ thẹn vì bạn viết thư pháp như vậy. Viết thư pháp là thực hành tọa thiền. Vì vậy khi bạn đang viết thư pháp nếu có ai đó nói, “Xin mời anh uống một tách trà” và bạn trả lời, “Không, cám ơn. Tôi đang viết thư pháp”. Thì lúc đó thư pháp của bạn sẽ lên tiếng, “Không, không phải vậy”. Bạn không thể tự dối gạt mình được.

Tôi muốn bạn hiểu công việc chúng tôi đang làm tại Trung tâm Thiền. Đôi lúc tập thiền như một cách rèn luyện cũng chẳng sao cả, để làm cho việc tập thiền được mạnh mẽ hơn và để cho hơi thở của bạn được êm dịu và tự nhiên hơn. Có lẽ đó cũng là một phần của việc tập thiền, nhưng khi chúng tôi nói shikantaza thì tập như vậy không phải là điều chúng tôi muốn nói đến. Khi chúng tôi nhận được tin tức đến từ thế giới của tánh Không, thì lúc đó việc thực hành của chúng tôi đang có kết quả. „■

Chú thích:

  1. Shikantaza (Hán ngữ là Chỉ quản đả tọa) thường được dịch là ‘chỉ ngồi thôi’; nó cũng có thể được diễn tả là ‘không ngăn chặn và không mê đắm vào tư duy’. Nhưng Suzuki có nhiều cách khác nhau để diễn đạt từ này: “Hãy sống trong từng phút giây’ hay là ‘Hãy thở ra cho hết’ hay là ‘Shikantaza là hãy là chính mình’. Đây là một trong những từ có thể giải thích vô tận hoặc là chẳng giải thích gì cả và chắc chắn rằng nếu có lúc nào bạn dừng lại và tự hỏi “đây” có phải là shikantaza không, thì chắc hẳn là không phải”. – ED Brown, trích từ bài giới thiệp tuyển tập Not Always So.

Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây. Những bài giảng của ông đã được in trong tập sách kinh điển Zen Mind, Beginner’s Mind và trong tập Branching Streams Flow in the Darkness: Zen Talks on the Sankodai.

Bài nói chuyện này trích từ tập Not Always So, một tuyển tập mới gồm những bài giảng xuất sắc của Đại sư Shunryu Suzuki do Edward Brown biên tập và HarperCollins xuất bản năm 2003.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2762)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2542)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2237)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2665)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2539)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2371)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2448)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3261)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2420)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2555)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2475)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2555)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3057)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2655)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2723)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2574)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2617)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3076)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2811)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2879)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2625)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2639)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3195)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2696)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2759)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3278)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2566)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2957)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant