Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

27 Tháng Mười 201409:41(Xem: 10245)
Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

                                          

hat cat minTrần Đan Hà

 

Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là  tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Song Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc).


Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:

 

 “Nếu có được niềm hỷ lạc nào sau khi quý độc giả xếp tập thơ lại; đó là món quà tinh thần cao đẹp mà quý vị dành tặng tác giả. Kính nguyện tất cả chúng ta sống an lạc hạnh phúc trong tin yêu và xây dựng một đời sống tốt đẹp giải thoát. (trích Lời mở đầu).

 

   Thông điệp nầy chẳng những ví như tấm lòng của các vị Bồ tát luôn nghĩ đến tha nhân và cầu mong cho vạn loại chúng sinh được sở cầu như nguyện. Đồng thời còn đi tìm mọi pháp nuôi dưỡngchuyển hóa tự thân và tha nhân trong tình thương yêu đồng đạo. Thế nên con xin mạo muội ghi lại những cảm nghĩ sau khi đọc xong thi phẩm; cũng như những đồng cảm của mình và trân trọng xin giới thiệu đến độc giả khắp nơi.

 

                                                                        ***

  Theo thiển nghĩ, Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật. (Ngày xưa Thầy Tuệ Không đã thi hóa Kinh Kim CangKinh Pháp Cú thành Kinh Hiền và Kinh Ngọc. Đến bây giờ là Thầy Bảo Lạc, với môn Duy Thức). Một việc làm hết sức khó khăn mà tác giả vẫn kiên trì thực hiện. Có lẽ nhờ vào những trợ duyên như đã ghi lại trong “Lời mở đầu”: Khung cảnh hùng vỹ của núi đồi Blue Mountain, nơi có ngôi già lam Đa Bảo cùng với sự đóng góp công quả của những Phật tử địa phương. Như bìa sách do Thầy Nguyên Tạng và họa sĩ Quảng Pháp Tấn - Ngọc Minh trìng bày. Cùng các PT. Tâm Quảng, Chúc Ý, Văn Tính, Châu Ngọc góp phần in ấn.

 

   “Hạt Cát Mịn” có thể ví như hóa thân của các tư tưởng lớn trên thế giới, được phân tích từ Thân và Tâm của con người qua những phạm trù như Lý trí và Tình cảm. Đây là những lãnh vực hết sức phức tạp không thể nghĩ bàn. Nhưng chỉ được rút gọn lại trong thể loại thơ Lục Bát của Việt Nam. Cho nên không thể tránh khỏi những “nghịch cảnh và chướng duyên”. Trước tiênphạm trù ngôn ngữ: “Thơ Lục bát là loại thơ mềm mại uyển chuyển, nên cần nhiều từ vận Bằng. Thế nhưng trong Ngôn ngữ học của các đề tài như Phân Tâm Học, Duy Thức Học bao gồm rất nhiều từ vần Trắc như: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ, Vô tưởng định, Diệt tận định, hòa hợp tánh, Bất hòa hợp tánh, Tưởng thọ diệt, Bất động diệt, Vô thường Vô ngã…Thứ hai, đã gọi là Luận thì không thể bỏ ý thêm lời, điều nầy lại trái ngược với việc làm thơ. Thế nhưng tác giả đã vượt thắng mọi chướng duyên để thực hiện được thi phẩm nầy. Có lẽ tác giả là một tu sĩ với bản nguyện là “Hoằng Pháp độ sanh” chỉ xem tất cả là phương tiện (đã gọi là phương tiện thì khi đạt đến cứu cánh rồi, thì phương tiện ấy cũng vứt bỏ). Thế cho nên mỗi câu thơ như một bài pháp để hướng dẫn việc tìm ra nguyên nhân căn bệnh để đối trị. Khi đã tìm ra nguyên nhân, thì cần phải luận bàn về công việc tương tác, tương tức với ngoại cảnh, để sống hòa cùng thiên nhiên vạn vật. Như đi tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa để bước vào cảnh giới hạnh phúc an lạc. Đó là mục đích của người tu học theo Phật giáo. Ví dụ như tìm hiểu về “Tâm Hành” để dẫn dắt con người đì về hướng chân thiện mỹ. Hay là thực tập những pháp môn để đưa tâm về với thế giới bình an. Vì cổ đức có nói “Tâm bình thì thế giới bình”.

 

   Nên tác giả đã không ngại khó, không sợ chướng duyên mà ra tay nghĩa hiệp. Nhờ vào thắng duyên như có nơi chốn tịnh lạc để tĩnh tu với khung cảnh: “Sáng nghe chim ca hót. Quen thuộc tiếng gọi mời. Vừng hồng vừa lộ hiện. Ngày mới rộn tinh khôi” (Ngày tinh khôi). Phong cảnh hữu tình đối với những tâm hồn thoát tục. Như cuộc sống của những đạo sĩ chọn nơi chốn thuận tiện để an thân lập mạng. Chiều chiều với gậy trúc vân du, hay những đêm trăng ngồi uống trà thưởng nguyệt. Hoặc chiêm nghiệm cuộc đời để tìm ra chân lý, để thấy được chân như. (Như ngày xưa Tất Đạt nhiều đêm ra ngồi bên dòng sông soi bóng để tìm lại “Bản lai diện mục” trong Câu Chuyện Dòng Sông của Hermann Hesse)

 

   Nơi đây đã cho tác giả cảm hứng đối với việc suy niệm về cuộc đời. Về những câu hỏi làm nát óc biết bao nhiêu nhà tư tưởng lớn của nhân loại: “Ta từ đâu đến? Và sẽ đi về đâu”? Hình như tác giả cũng mong muốn đi tìm một câu trả lời thỏa đáng, nên đã dụng công hình thành tác phẩm nầy để làm phương tiện, giúp cho những ai đang mong cầu tu học theo đạo giải thoátgiác ngộ của đức Từ phụ Thích Ca.

                              

   Xin lược qua những phần quan trọng của nội dung thi phẩm: Thi phẩm Hạt Cát Mịn được chia ra năm tiểu mục với những chủ đề như sau: Thức Tâm. Sắc Trần. Tâm-Vật lý. Thân phận. Phong cảnh.

 

   Ba phần đầu, tác giả cố công tìm hiểu sự hình thành, tương tức và tương tác qua sự vận hành của con người hay vũ trụ. Vì con người hay vũ trụ cũng từ trong cát bụi mà ra. Như lời một bản nhạc của cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai tôi trở về cát bụi…”. Hay trong Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả cái trùng trùng duyên khởi: “Tam thiên Đại thiên Thế giới chỉ nằm trong hạt cải mòng”. Hay “một là tất cả, và tất cả là một”.

 

  Thức tâm gồm 100 pháp duy thức là: Trăm pháp. Tâm thường như. Chuyển thức thành trí. Tâm vương. Tâm sở. Tâm bất tương ưng. Vô vi pháp. Căn bản phiền não. Tùy phiền não. Các tâm sở thiện. Còn phần sau như một phụ trang diễn tả thân phận và cuộc sống của con người đối với bản thânxã hội; những cảm tác về phong cảnh thiên nhiên, qua những lần Thi nhân đi chiêm quan phương ngoại.

 

   Xin trích dẫn một phần nhỏ của những đề mục chính trong “Trăm Pháp”.

 1)- Trăm pháp: Chuyển dịch Đại thừa Bách pháp Minh môn (lời luận của Thế Thân Bồ tát về Tâm pháp). Sau đây là phần luận về Tâm vương ví như một vị vua điều hành các Bộ các Ngành. Để đem lại thanh bình thịnh trị cho quốc gia xã hội.

  Trong Bách pháp quan trọng nhất là Tâm vương:

 

  “Thử xem tám pháp Tâm vương

   Như vua một nước đảm đương trị vì

   Bao gồm các Bộ, Sở, Ty

   Điều hành sắp đặt thực thi chế tài”

 

   -Tâm sở:

   Tưởng là nghĩ ngợi lo xa

   Suy lường tưởng tượng non già thiệt hơn

   Tự lo xét nét nguồn cơn

   Do ý hành động thiện chơn đẹp lòng

   Năm điều bốn chuyện bên trong

   Biến thiên pháp giới khắp cùng hư không

 

   -Tâm bất tương ưng:

   Bất tương ưng hành hửng hờ

   Hai mươi bốn món dựa nhờ Tâm vương

   Đắc là đạt được ứng tương

   Phá ngã chấp Pháp thoát đường lầm mê

 

  - Vô Vi Pháp:

   Pháp Vô vi thật khó lường

   Không hình vô tướng dễ thường cân đo

   Pháp tuyệt đối pháp thẩm sâu

   Lìa sanh diệt ứng hiệp ngay Niết Bàn.

 

   Các pháp hữu vô lược qua

   Muôn hình vạn trạng quả là rộng dung 

   Từ phàm tới thánh cộng thông

   Cùng tu đồng chứng Pháp thân Bồ Đề.

 

   -Căn bản phiền não:

   Căn bản phiền não bẩm sinh

   Theo ta như bóng với hình sánh đôi

   Đầu thai chuyển kiếp luân hồi

   Thoát vòng tăm tối chào đời hài nhi

 

  -Tùy phiền não:

   Nhóm tùy phiền não theo sau

   Gồm hai mươi món như bao lá cành

   Ba phẩm thứ tự hợp thành

   Tiểu tùy mười món phần hành khác nhau

 

   Phẩm hay giận dỗi nhớ dai

   Hận luôn ghim gút thù ai khó hòa

   Phú che dấu tội tối đa

   Não luôn tâm trạng tỏ ra buồn phiền

 

   -Các tâm sở thiện:

   Hoàn toàn tâm lý hiền lành

   Ưa làm lợi ích chúng sanh giúp đời

   Giác ngộ giải thoát tuyệt vời

   Thế hay xuất thế đồng thời dựng nên

 

   -Các yếu tố của tâm thiện:

 a)- Tinh tấn là hạnh chuyên tinh

   Siêng năng thắng lướt ngoại hình quản chi

   Ác chưa sanh quyết trừ đi

   Sanh rồi diệt sạch dứt truy đến cùng

 

 b)-Tàm là tự xấu hổ riêng

   Tôn trọng danh dự thiêng liêng của mình

   Không làm thương tổn ô danh

   Giữ gìn thể diện tiếng lành đồn xa

 

 c)-Quý cùng e thẹn người bên

   Lo sợ dư luận kịp kềm dừng tay

   Đối trị vô quý dứt ngay

   Ngăn ngừa việc ác khó mà phát sanh

 

 d)-Vô tham là hạnh đẹp xinh

   Của tiền bố thí hòa bình ngoài trong

   Thái độ thân thiện ân cần

   Phấn chấn vui vẽ phát tâm Bồ đề

 

 e)-Vô sân là liều thuốc thần

   Chửa bệnh nóng giận trị căn thù hằn

   Dù gặp nghịch cảnh trái ngang

   Tâm luôn bình tỉnh vui an tròn đầy

 

   Chận ngay đóng bít sân rào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sinh

 

 g)-Vô si có vẽ đàn anh

   Ung dung thư thái tâm thành sáng trong

   Chẳng cho mê muội lạc lầm

   Một bề sáng suốt kiếm tìm minh sư

 

 h)-Khinh an nhẹ bước vân du

   An nhiên tự tại tâm thư thái hòa

   Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Họa tai biến cố chưa hề động giao.

 

 i)-Bất phóng dật thật thiện toàn

   Không buông lung ấy mới trang anh hào

   So tài đấu trí thấp cao

   Lồng trong khuôn khổ nhà giao đức dày

 

 k)-Hành xã mọi việc thỏng buông

   Hành mà không chấp in tuồng khó thay

   Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công

 

   Tứ chúng giác ngộ chăng là

   Cũng xem như gió thoảng qua bầu trời

   Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng

 

l)-Bất hại tâm lý sau cùng

   Không làm thương tổn muổi mòng sinh linh

   Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh.

 

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy

 

Phần II:-Sắc trần:

 

   1) Sắc pháp

   Chủng loại sắc pháp bao hàm

   Năm căn chung với sáu trần kết nên

   Sinh lý về phần năm căn

   Đổi trao vật lý dò phăng sắc trần

 

   2) Thanh trần:

   Thanh trần là tiếng nhân gian

   Xưa nay tiếp diễn nhịp nhàng trước sau

   Cũng vì mê luyến đắm say

   Bao người vướng víu thoát ngay được nào.

 

   3)-Hương trần:

   Mùi hương phảng phất dễ ưa

   Ai mà chẳng thích thoáng vừa nhẹ lâng

   Phân thành sáu loại hương trần

   Càng thêm ý vị tăng phần gấm hoa

 

   Ba điều sáu chuyện vừa nêu

   Cơ quan khứu giác mủi đều ngất ngây

   Mùi hương chiên đàn nhẹ bay

   Hương người đức hạnh ngược quay gió ngàn

   Hương giải thoát ngát trần gian

   Thơm lừng pháp giới Niết Bàn tinh nguyên

 

   4)- Vị trần:

   Vị trần gồm có mười hai

   Mặn, ngọt, chua, đắng, lạt, cay, nồng nàn

   Vị vừa ý, vị cường toan

   Khó mong đáp ứng vẹn toàn dưới trên

 

   5)- Xúc trần:

   Xúc ưa đụng chạm mịn trơn

   Mỏng nhẹ, láng mướt, chập chờn làn da

   Thích nghi hoàn cảnh tối đa

   Muốn thân sung sướng hóa ra khổ nhiều.

 

   Phần III:- Tâm -Vật lý: Tâm-Vậy lý trước thời đại.

   Do nhiều phần tử hợp nên

   Nhiều phe phái mượn gióng lên tranh giành

   Sanh ra xâu xé phân tranh

   Chủng tộc, xã hội hình thành quốc gia…

 

(Là sự tổng hợp tư tưởng triết gia từ Đông sang Tây, từ những triết học cổ La Hy trước Công Nguyên như Aristotle (384-322) đến Decartes (1596-1650)-Newton (1643-1727)-Galileo (1564-1642)- Albert Einstein…)

 

Trong công việc tương tác ấy, tác giả cũng đã bắt gặp những ý tưởng hay, được lồng vào trong những câu thơ đẹp, qua: “Các yếu tố của tâm thiện”:

 

   “Chận ngay, đóng bít, sân rào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sanh”

 

   “Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Tai họa biến cố chưa hề động giao”

 

   “Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công”

 

  “Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng”

 

  “Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy”

 

  “Giữ tâm thiết thạch kiên trinh

   Không hề nao núng thế tình thị phi

   Ung dung tự tại duy trì

   Kiện toàn tổ chức phát huy pháp mầu

   Ngàn xưa mãi đến ngàn sau

   Tâm không, vật cũng nhuốm màu hư không”

 

   Phần VI và V: “Thân phận và Phong cảnh” gồm những bài thơ “độc lập” như góp vào những bông hoa làm nên hương sắc cho đời, hương sắc giải thoát:

 

  “Cùng tu cùng học đồng hành

   Đồng giải nghiệp lực tử sanh luân hồi

   Tỏ tường lóng gạn khúc nôi

   An vui tự tại cảnh đời tịnh an

   Đẹp xin chín phẩm sen vàng

   Di Đà từ phụ phóng quang rước về…”

 

  “Thành tâm khấn nguyện Như Lai

   Đạo vàng bền vững hoằng khai rạng ngời

   Cõi người, cõi thánh, cõi trời

   Địa ngục, ngạ quỷ đồng thời súc sanh

   Tin sâu, niệm vững, chí bền

   Đồng tu đồng chứng đồng lên Niết Bàn”

 

   Để rồi cuối cùng đi đến một lập nguyện:

 

    “Đường giải thoát nguyện bước lên

      Đơm hoa bát nhã kết nên sen hồng”

 

   Là gói ghém tất cả những tâm nguyện của Thi nhân, với một tấm lòng hướng đến giác ngộgiải thoát. Cho nên thơ cũng được giải phóng khỏi thế giới đời thường. Như cố Thi sĩ Vũ Hoàng Chương diễn tả:

 

     “Chữ bay từng cánh chim ngàn.

      Mỗi câu là một Niết Bàn hóa thân”.

 

   Muốn có tập thơ “Hạt Cát Mịn” xin liên lạc về:

                 Chùa Pháp Bảo

          148- 154 Edensor Road,

 St Johns Park, NSW 2176 Australia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2345)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2433)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3246)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2192)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2704)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2985)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2586)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4084)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3062)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3304)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2499)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2997)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2627)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3264)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2047)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2901)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2704)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant