Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nước Mắt Thú Vật

02 Tháng Mười Hai 201419:05(Xem: 10303)
Nước Mắt Thú Vật

Nước Mắt Thú Vật

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

 

     Theo tin được phổ biến bởi “Tin Tức Nhân Dân” (People’s News) của Trung Quốc thời có một chuyện bất ngờ xảy ra ở Hong Kong, nghe có vẻ khó tin nhưng lại có thật. Tờ “Tin Tức Thế Giới Hàng Tuần” (Weekly World News) tường thuật rằng có một nhóm nhân công dắt một con trâu vào trong một lò sát sinh để sửa soạn giết thịt làm bíp-tết và hầm ra-gu.

     Khi họ đi tới trước cửa lò thời con vật thình lình đứng khựng lại, không chịu tiến bước thêm nữa. Chú trâu qùy xuống bằng hai chân trước và tuôn rơi nước mắt. Tại sao trước khi vào lò sát sinh mà một con trâu lại có thể hay biết rằng nó sắp bị xẻ thịt. Điều này tỏ ra nó có vẻ nhậy cảm nhiều hơn con người.

     Tay đồ tể Shiu Tat-Nin kể lại chuyện đó một cách hoàn toàn xúc động: “Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!” Anh chàng kể tiếp: “Tôi vội vàng gọi mọi người tới coi và tất cả đều ngạc nhiên như tôi. Chúng tôi cùng xúm vào để người thì đẩy và người thì lôi kéo chú trâu đi nhưng nó không chịu nhúc nhích, nó chỉ ngồi đó và tiếp tục khóc!”

     Chủ lò sát sinh Billy Fong nói: “Con người luôn nghĩ rằng những con vật này không giống người, đâu biết khóc, nhưng chú trâu này quả thật đã khóc như một đứa trẻ nít!”

     Vào lúc đó có ít nhất là cả chục người khoẻ khoắn và vạm vỡ hiện diện nhưng tất cả đều mủi lòng khi thấy chú trâu khóc. Riêng những đồ tể thường có nhiệm vụ hàng ngày phải giết trâu bò trong lò sát sinh còn tỏ ra xúc cảm hơn nữa, họ cũng nhỏ lệ.

     Khi các tay đồ tể từ các lò sát sinh khác nghe thấy tin này họ cũng kéo nhau chạy tới xem. Cả đám đông đều rất ngạc nhiên vì những chuyện xảy ra trước mắt họ. Ba người đồ tể trong nhóm đó quá xúc động đến nỗi họ tuyên bố rằng kể từ lúc này mỗi khi họ phải làm thịt các sinh vật khác họ cũng sẽ không thể quên hình ảnh nước mắt của chú trâu này.

     Kết thúc sẽ giải quyết như thế nào? Thấy cả trâu lẫn người đều nhỏ lệ chúng ta biết rằng chú trâu sẽ không bị xẻ thịt nữa. Quả thật vậy, một số người đã bỏ tiền ra mua chú trâu đó rồi gửi chú vào trong một ngôi chùa Phật giáo để nơi đó quý Tăng sẽ chăm sóc nó chu đáo hơn và chú trâu có thể an lành sống đến tận cuối đời!

     Một chuyện kỳ lạ khác lại xảy ra. Sau khi có quyết định trên chú trâu linh cảm rằng sinh mạng chú được bảo đảm, chú tự đứng dậyđi theo họ. Shiu Tat-NIin ngạc nhiên nói: “Tại sao một con trâu lại hiểu được những lời nói của con người? Dù bạn có tin hay không nhưng chuyện lạ lùng này quả có thật.” Hiển nhiên chú trâu này đã làm lay chuyển cuộc sống của những nhân công làm việc trong lò sát sinh!

      Thêm một chuyện nữa. Vào tháng 9 năm 2014 một ca sĩ đăng tải trên trang Facebook của mình hình ảnh một chú chó con ra đời khi chó mẹ đang bị nhốt trong lồng và đưa đến nơi lò mổ giết thịt. Hình ảnh này được chia sẻ rất lờn trong cộng đồngtranh luận rộng rãi trên khắp các mạng xã hội.

     Chú chó bé nhỏ mới sinh ra độ một vài ngày, được sinh ra ngay trong chiếc lồng chật chội, mắt còn chưa mở, đang cố gắng vươn đầu ra khỏi lồng.

     Cùng với bức ảnh là những lời: “Chú chó con được sinh ra ngay trong lồng trên những chuyến xe chở cả chó mẹ và những đồng loại khác đến lò mổ... Ngay cả khi mới sinh ra, chó con đã không thể tự quyết định số phận cho mình, và kể cả kẻ đã sinh ra núm ruột của mình cũng không thể tự quyết định vận mệnh cho con chúng. Nhưng con người có thể quyết định số phận cho chúng?”

      Được biết nguồn gốc tấm hình này xuất phát từ một trang web Trung Quốc, nơi cộng đồng đã phát hiện và giải cứu con vật bé nhỏ đáng thương.

 Cho Con

     Cũng tại trang Facebook cá nhân của ca sĩ nói trên người ta thấy hình ảnh hai năm trước đó về một chú khỉ bị nhốt trong lồng với cánh tay bị thương rất nặng nhưng không được chủ nhân nó quan tâm săn sóc. Đau đớn, chú khỉ này chỉ biết rưng rưng nước mắt. Tương tự như chú trâu bị đưa vào lò sát sinh kể ở trên.

     Lời ghi chú cạnh đó viết: “Bạn có thể không cần phải là một người thành công, không cần phải là một người giàu có... nhưng bạn nên là một người sống Nhân Ái, có tình thương dù là với một con vật, thì mới có lòng Nhân Ái với con người. Và đó sẽ là Tài Sản Lớn Nhất mà bạn dành cho con cháu mình về sau... Những đứa trẻ được sống với những hình ảnh Nhân Ái sẽ là nền tảng để phát triển Tâm Lý - Trí Tuệ - Sáng Tạo, sống có ích cho Xã Hội... Tích Phúc đi người làm ra chuyện này.”

     Nghe những tin tức trên khiến chúng ta phải nhớ đến lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma:

     “Chúng ta có thể thấy con người đánh đập thú vật một cách dã man và dùng mạng sống của chúng cho những thí nghiệm y học. Chúng ta đã bóc lột chúng và ăn thịt của chúng. Chúng ta nên phát triển từ tâm với thú vật. Chúng ta không thể đếm được nỗi đau khổ của chúng và có thể một ngày chúng ta sẽ tái sinh thành thú.

     Hàng ngàn con thú, hàng triệu con thú, hàng tỷ con thú bị đem đến lò sát để lấy thịt. Đây là nỗi đau khổ khôn cùng.

     Nhưng nỗi đau khổ đến cùng khi tôi nghĩ đến những phương cách giết tàn bạo, khiến loài thú trải qua tâm lý vô cùng khủng hoảng trước khi chết như ở trong địa ngục. Theo quan điểm Phật giáo, các con thú bình đẳng với con người…” (The Dalai lama’s Little Book  of Inner Peace)      


     Đối với người tại gia, Đức Phật khuyên giữ năm giới. Năm giới đó là: “không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm và không uống rượu say sưa”. Những ai phạm năm giới này là tự đào bỏ mất thiện căn của mình, bỏ mất đi cái gốc lành, rồi tự đào hố chôn sâu gốc rễ của mình vào vòng trầm luân, bám chặt, dính mắc vào kiếp sống sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát ra khỏi thế gian đầy đau khổ này. 

     Người phát tâm quy y Tam Bảo là đã bước chân lên nấc thang giải thoát, nhưng nếu không giữ ngũ giới là chỉ mới bước một nấc đầu rồi dừng lại. Năm giới không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể. Không sát sinh là một trong “năm giới” mà người Phật tử phải theo. Chúng ta không được trực tiếp giết, không xúi bảo người giết và không tùy hỷ trong việc giết hại. Mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau.

 

     Không sát sinh bao gồm không giết hại từ con người đến súc vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò v.v… cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng, sâu bọ, kiến v.v… Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương đau đớn cho con người và các loài. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sanh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con ngườisúc vật thì phải sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản. Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ sự công bằng. Mọi thú vật đều là những người bạn đồng hành với chúng ta trong đại trùng dương của đời sống, và những người bạn xấu số ấy cũng quý trọng mạng sống như chính chúng ta.

     Không sát sinh thì khỏi phạm hai tội lớn sau đây: Một là giết hại các bực Phật vị lai, vì Đức Phật nói mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau: “Tất cả chúng sinh đều là chư Phật vị lai”. Hai là giết lộn bà con nhiều đời, ăn lầm bà con nhiều kiếp, vì trong kinh Bồ Tát Giới có nói: “Tất cả lục đạo chúng sinh đều là họ hàng ta, cha mẹ ta, đã chết đi rồi sinh lại trong nhiều đời nhiều kiếp”.                      

     Giữ giới sát sinhnuôi dưỡng lòng từ bi. Từ bitình thương hoàn toàn vị tha. Đây là một trong những yếu tố cốt tủy của Phật Giáo.

     Giữ giới sát sinh còn tránh được nhân quả báo ứng. Nếu mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật thời tích lũy lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào đau khổ vì nợ máu sẽ phải trả bằng máu không ở kiếp này thì cũng ở kiếp sau. Nghiệp oán xoay vần không có ngày chấm dứt

     Người giữ giới không sát sinh luôn luôn có tâm an ổn, nét mặt hiền hòa. Nếu mọi người trên thế giới đều giữ giới không sát sinh thì thế giới không còn chiến tranh.

     Năm giới nói trên chỉ là bài học thông thường không chỉ để áp dụng riêng cho Phật tử, mà nó còn hữu ích cho tất cả mọi người nếu biết áp dụng để có cuộc sống an vui tiến bộ. Nếu xã hội nào áp dụng triệt để năm giới này, thì xã hội đó văn minhgương mẫu nhất thế giới vậy.

 

     Trong “Kinh Pháp Cú” (Dhammapada) Đức Phật từng dạy trong “Phẩm Dao Gậy”:

 

(Pháp Cú 129)

“Sợ thay gậy gộc, gươm đao

Sợ tay thần chết hại bao cuộc đời

Suy lòng mình ra lòng người

Chớ nên giết hại hoặc xui giết người.”

 

(Pháp Cú 130)

Sợ thay gậy gộc, gươm đao

Yêu thương mầm sống, khát khao cuộc đời

Suy lòng mình ra lòng người

Chớ nên giết hại hoặc xui giết người.

 

     Trong “Phẩm Trọng Pháp” Ngài cũng dạy rằng:

(Pháp Cú 270)

Sinh linh sát hại triền miên

Thánh hiền đâu xứng là tên của mình,

Không còn sát hại sinh linh

Thánh hiền mới thật xứng danh vô cùng.”\

 

     Ngày nọ, khi Đức Phật vào thành Xá Vệ để trì bình thì thấy một nhóm trẻ con cầm gậy xúm lại đập một con rắn nước. Ngài dừng lại hỏi:

   - Này các con, các con đang làm gì đó?

   - Bạch Ngài, chúng con đang đập một con rắn.

   - Tại sao các con đập nó?

   - Bạch Ngài, vì các con sợ nó cắn.

     Đức Phật mở lời khuyên dạy: “Trong khi các con làm đau đớn con rắn, hãy nghĩ đến chính các con. Hành động hung bạo này sẽ làm tổn thương đến hạnh phúc của các con trong tương lai. Người nào muốn tìm hạnh phúc cho mình, chớ nên đánh đập kẻ khác”.

     Lời Ngài dạy ghi trong “Kinh Pháp Cú”:

 

(Pháp Cú 131)

Ai cầu hạnh phúc cho mình

Mà dùng dao gậy gian manh hại người

Khiến người tan nát cuộc đời,

Kiếp sau mình chẳng an vui được nào.

(Pháp Cú 132)

Ai cầu hạnh phúc cho mình

Không dùng dao gậy gian manh hại người

Không gây tổn hại cho đời,

Kiếp sau mình sẽ an vui vô cùng.

 

     Trong “Bát Chánh Đạo” thời yếu tố thứ năm là “Chánh mạng”. Phải sinh sống chân chính, sống đời trong sạch, nên từ bỏ sự sinh nhai bằng một nghề nghiệp mang thiệt hại cho người và vật. Lánh xa năm nghề nuôi mạng khả dĩ tạo nghiệp xấu là buôn bán khí giới, buôn bán nô bộc, bán vật thực có chất say, buôn bán độc dược và giết hại súc vật, nuôi thú vật để bán cho người ta ăn thịt hoặc làm nghề đồ tể.

     Sự sát sinh cũng phải theo định luật nhân quả trong lĩnh vực tinh thần đạo đức là “nghiệp báo”. Tại sao có người được sinh trưởng trong cung điện nguy nga, giàu sang, vinh hiển, trí tuệ xuất chúng, đạo hạnh thanh cao, thân hình tráng kiện. Trong khi ấy có kẻ khác lại phải sống trong cảnh cùng đinh cơ hàn khốn khổ, tối tăm ngu muội…


     Khi có một chàng thanh niên tên Subha thắc mắc trước trạng huống bất đồng giữa loài người, muốn tìm chân lý, đến hỏi đức Phật và ngài trả lời như sau:

     “Nếu người kia trọn đời chỉ biết sát sinh, người thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẫm máu, hằng ngày sống trong sự giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy, nếu tái sinh trong cảnh người, người ấy sẽ là một người “yểu”.

     “Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xúc phạm đến mạng sống của ai, sống xa gươm đao giáo mác và các loại vũ khí, lấy lòng từ ái đối xử với tất cả chúng sinh. Do tâm từ ái, tự chế không sát sinh ấy, nếu tái sinh vào cảnh người, người ấy sẽ “thọ”.

    “Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung hãn dữ dằn ấy nếu tái sinh vào cảnh người, người ấy sẽ yếu đuối bệnh hoạn”.

     “Nếu người kia không làm tổn thương ai khác. Do đức tính hiền lương nhu hòa ấy nếu tái sinh làm người, người ấy sẽ cường tráng khỏe mạnh ...” (Majjhima Nikaya, Trung A Hàm)

 

     Hơn nữa chúng ta thử tìm hiểu về khái niệm “Nghiệp” trong Phật giáo. “Nghiệp” là những hành động, tạo tác do ba nơi “Thân, Khẩu, Ý”. Đức Phật hướng dẫn chúng ta ý thức được sự quan trọng của nghiệp tức là “hành động” của mình làm, vì chỉ có hành động mới là quan trọng, mới là chủ yếu.    

     Nghiệp có thể chia ra ba tính cách: lành là “thiện nghiệp”, dữ là “ác nghiệp”, hoặc không lành không dữ là “vô ký nghiệp”. Lành nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như tương lai.

     Như vậy, chỉ có hành động, chỉ có nghiệp là quan trọng, vì chính nghiệp mới đem lại kết quả tốt đẹp hay không tốt đẹp cho con người và chính con người mới thật là chủ nhân của nghiệp, tác thành ra nghiệp, và khi nghiệp đã làm rồi, thời không thể nào trốn tránh kết quả của nghiệp. Tạo nghiệp ác không tránh khỏi ác báo.

     Theo đúng giáo lý của Đức Phật, ta không thể van lơn cầu cạnh, hay hối lộ, hoặc gian lận bằng cách nào mà thay đổi được định luật nhân quả. Cũng không thể lẩn trốn nơi nào trên thế gian, dầu trên trời rộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm, hoặc trong thâm sơn cùng cốc mà ta tránh khỏi hậu quả của nghiệp ác đã tạo. Không có vị Trời nào, chí đến Đức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào sự báo ứng của nghiệp.

     Ta chịu trách nhiệm về nghiệp ác của ta. Quả báo ấy có thể xảy đến tức khắc, thường gọi là quả báo nhãn tiền, hoặc một thời gian lâu sau ngày thực hiện điều ác mới xảy ra.

     Kẻ làm điều ác thời sẽ gặp nhiều phiền muộn trong kiếp này và trong cả kiếp sau. Kẻ ấy sẽ sinh ưu phiềnsầu khổ khi nhìn thấy kết quả xấu của nghiệp ác do mình gây ra. Đức Phật dạy trong “Kinh Pháp Cú”:

 

(Pháp Cú 15)

Đau buồn ngay ở kiếp này

Kiếp sau cũng lại tràn đầy buồn đau:

Người làm điều ác hay đâu

Buồn kia theo mãi dài lâu bên mình

Quay nhìn việc ác tạo thành

Chết mòn thân xác, héo nhanh tâm hồn.

     Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng lên tiếng. Lời Ngài dạy như những viên ngọc trí tuệ giúp cho chúng ta mang lại sự thanh thản cho tâm hồn:

     “Tại các nước dân chủ nơi mà nhân quyền được tôn trọng, thì quyền được làm một con thú lại bị chà đạp một cách quá đáng. Theo nguyên lý tương liên giữa mọi chúng sinhhiện tượng, tất cả chúng ta đều liên đới với nhau. Chúng ta thường dễ quên và không hề quán xét về hậu quả phát sinh từ cung cách hành xử tiêu cực sẽ gây ra những ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của mình, trong ngắn hạn cũng như về lâu dài. Sự khai thác quá đáng súc vậtthiên nhiên sẽ gây ra trong tương lai những tác động vô cùng nguy hại, nhất là đối với thực phẩmtình trạng sức khoẻ nói chung. Nếu chịu khó suy nghĩ thêm một chút thì tất chúng ta sẽ phải hiểu rằng thật hết sức cần thiết là phải tổ chức các hệ thống xã hội như thế nào để có thể bảo vệ môi trường và súc vật. (“108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité”, Hoang Phong dịch.)

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2360)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2215)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2568)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2603)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2612)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant