Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Bình Thường Là Đạo

08 Tháng Tám 201516:20(Xem: 12657)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO

Thiện Ý

        
 Tâm Bình Thường Là ĐạoCâu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”, nói theo chữ Hán là “bình thường tâm thị đạo”.  Vậy, tâm bình thường có gì ghê gớm mà có thể gọi là Đạo?  Chữ “bình” (平)trong tiếng Hán, nếu dịch sang tiếng Anh là ‘peace,’ mà nghĩa peace trong tiếng Anh rất là nhiều nghĩa.  Peace có thể dịch là sự bình an mà vượt lên trên cả bình diện hạnh phúc và khổ đau. 

Một khi tâm đã bình an, nghĩa là trong trạng thái buông xã hoàn toàn, không còn chấp thủ, hay dính mắc. Theo thiển ý, tâm bình thường là tâm với một thái độ vô cầu, không vướng mắcTâm bình thường cũng có thể hiểu là tâm an trú trong sự bình an, tĩnh mặc, như mặt nước hồ thu, yên tịnh, trong sáng, soi rọi và ôm trọn tất cả những cảnh trí quanh mình, mà hoàn toàn không bị đắm say, hay xáo trộn, dính mắc, như thi kệ nổi tiếng của thiền sư Hương Hải (1628-1715), còn gọi là Tổ Cầu, một thiền sư Việt nam, đã mô tả:

Nhạn bay ngang trời
Bóng chim đầm lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu bóng hình. 
(Bản dịch của Sư Ông Làng Mai)

(Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm)

          Người sống với tâm bình thường là người đã biết đủ, không còn tham cầu, mong ngóng để thành tựu thêm một cái gì nữa.  Cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và họ mãn nguyện với cái mình đang có.  Họ không còn những đấu tranh, dằn vặt trong nội tâm.  Họ đã có thể sống bình an, hòa bình với tâm thức, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Đói khát, nóng lạnh, khổ đau, hạnh phúc, v.v.. chỉ là những khái niệm do con người đặt tên.  Nên trong câu chuyện ‘chém mèo,’(Nguyên tác Vô Môn Quan do Nguyễn Nam Trân biên dịch),  ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói:  

-‘Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi.’

Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo.

Tối hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng.

Nam Tuyền thấy thế mới bảo:

-‘Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết!’

Thói thường, chúng ta hay đặt tên cho tất cả các sinh vật, hay đồ vật là để tiện việc đối thoại.  Nhưng lâu ngày, chày tháng chúng ta bị dính mắc vào tên gọi, nên khi ai đó có một ý niệm khác về vật đã được gọi quen lâu nay, mình cho rằng như vậy là sai. Sở dĩ ngài Nam Truyền làm thế và ngài Triệu Châu trả lời như vậy vì các ngài không còn bị dính mắc vào những thông tục về tên gọi và khái niệm của thế gianNên chi, giày dép là vật dơ bẩn để đi đường tránh dơ, sao lại đem đội trên đầu!  Tập khí của thói quen rất là mạnh. 

Khi mình đã quen thuộc với một cái gì đó, phải thay đổi cách suy nghĩ hay việc làm là điều rất khó chịu! Những hình thức mà đã được mình lập trình (programmed) trong tâm nên chi rất là khó khăn khi mình phải phá bỏ (delete) cái mà lâu nay mình cho là hoàn toàn đúng!

          Có thể đa số chúng ta sẽ cho rằng: như vậy khi mà chúng ta ai cũng tham muốn thành tựu cái này, cái kia nên chưa thấy khả năng chứng ngộ của mình thì tất cả đều có “tâm bất bình thường” cả sao?!  Trở lại vấn đề bên trên, bình thường, hay bất bình thường đều là những khái niệm cả; giống như đa số chúng ta khi đồng ý một chuyện gì thì gật đầu tán đồng.  Nhưng theo người gốc Ấn độ thì lắc đầu mới có nghĩa là tán thành, đồng ý.  Vậy khi mình đến xứ Ấn, muốn cho họ hiểu mình cũng phải lắc đầu theo vậy! 

          Theo tư tưởng trung đạo, tâm bình thường có nghĩa là chúng ta không để mình bị lôi kéo hay vướng mắc vào một cực đoan nào cả!  Hôm nay, sự kiện này có thể là đúng.  Nhưng ngày mai nó sẽ có thể không còn đúng nữa.  Nếu chúng ta bị mắc kẹt vào sự đúng sai, phải trái tyệt đối như vậy, thì tâm mình có được bình an trong cái thế giới vô thường, luôn luôn thay đổi này hay không?  Thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn :

Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.  

Nghĩa là: Các hiện tượng đều là vô thường, đều là những hiện tượng có sinh và có diệt. Khi cả sinh và diệt đều không còn, thì trạng thái ‘bình thường’ vắng lặng (tịch diệt) mới là niềm an lạc chân thật nhất.

          Cho nên, ngày xưa có một vị vua treo giải thưởng lớn cho họa sĩ nào có thể vẻ được một bức tranh ý nghĩa nhất, mô tả sự bình an.  Có rất nhiều họa sĩ dự thi.  Nhà vua xem xét hết mọi bức tranh nhưng chỉ có hai bức là nhà vua thích nhất và vua phải chọn một bức thắng giải.

          Một bức tranh mô tả một hồ nước tỉnh lặng.  Hồ nước trong tranh như là một tấm gương tuyệt hảo, phản ảnh những ngọn núi hùng vĩ bình yên, vững chải bao bọc xung quanh.  Trên cao là bầu trời xanh trong với những đám mây trắng như bông tuyết.  Mọi người xem bức tranh đều nghĩ đây quả thậtbức tranh tuyệt vời diễn tả sự bình an.

          Bức tranh kia cũng có núi non hùng vĩ, nhưng chúng rất hiểm trở, gồ ghề, và trần trụi.  Bên trên là một bầu trời xám xịt, mưa rơi tầm tả, và sấm chớp đầy trời.  Bên hông núi là một thác nước ầm ầm chảy.  Cảnh này chẳng có vẻ gì là bình an cả.  Nhưng khi nhà vua nhìn kỷ hơn, ông thấy phía sau thác nước là một bụi cây nhỏ mọc bám vào kẻ nứt của tảng đá.  Bên trong bụi cây là một con chim mẹ đang ngồi trong một cái tổ ấp con mình, an nhiên giữa những cuồng phong bảo tố của trời đất … thật là bình an làm sao!

          Bạn đoán thử xem bức tranh nào thắng giải?

          Nhà vua chọn bức thứ hai, bởi vì theo lời giải thích của nhà vua, “bình an không có nghĩa là đang sống trong một nơi bình an, không có sự ồn ào, phiền phức, hay khó khăn.  Bình an có nghĩa là đang sống ngay trong lòng của những hoàn cảnh trên, nhưng trong tâm vẫn an nhàn, tự tại.  Đó mới chính là ý nghĩa thực sự của sự bình an.”

                                                                                Thiện Ý

                                                                           (tháng 7, 2015)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2222)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2657)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2352)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2437)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2202)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2650)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2992)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2557)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2386)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2688)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant