Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Hư Dối Thọ Nhận Mọi Cảm Giác Khổ Vui

11 Tháng Tám 201515:16(Xem: 9312)
Tâm Hư Dối Thọ Nhận Mọi Cảm Giác Khổ Vui

TÂM HƯ DỐI THỌ NHẬN MỌI CẢM GIÁC KHỔ VUI

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Tâm Hư Dối Thọ Nhận Mọi Cảm Giác Khổ Vui

 

Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó. Chúng ta có thể thọ nhận sự dễ chịu hay sảng khoái là tùy thuộc theo đối tượng. Nếu cảm giác bị mất đi do bệnh tật thì con người phải sống đời thực vật mà không biết gì, tức là chúng ta không cảm nhận được sự sảng khoái và khó chịu.

Kinh Phật dạy tất cả thọ đều vô ngã, vì nó không thực thể cố định, không phải là ta, là của ta, chủ yếu là do sự tác động của đối tượng mà có cảm thọ dễ chịu hay khó chịu. Có những trường hợp không khó chịu cũng không khoái lạc, ta gọi là thọ xả.

Trong từng phút giây phát sinh đủ thứ cảm giác liên tục bởi sự tác động của sự dễ chịu hoặc khó chịu hay không nằm trong hai trường hợp đó. Ba loại cảm giác này phát sinh liên tục không có lúc nào dừng nghỉ tùy theo sự tác động đối tượng qua môi trường sống của chúng ta hằng ngày. Đang khát nước bởi ánh nắng oi bức của buổi trưa hè, được uống một ly nước cam, ta sẽ cảm nhận sự dễ chịu của nó qua hương vị ngọt ngào.

Trong tình yêu người ta thường thọ nhận cảm giác khoái lạc qua nhịp đập của trái tim, nên cuộc sống của chúng ta đương nhiên là phải hưởng thụ, nhưng càng hưởng thụ nhiều và luyến ái vào nó, chúng ta sẽ bị nghiện các cảm giác khoái lạc đê mê mà trở nên tham đắm và ghét bỏ.

Cái gì đến với ta mà ta nhận gọi là thọ, khi chúng ta thọ nhận sẽ đưa đến luyến ái và dính mắc vào đó muốn gìn giữ mãi. Ngày xưa có ông Phạm chí Trường-Trão là cậu ruột của Tôn giả Xá-lợi-phất. Ông này rất thích biện luận ngay khi còn nhỏ.

Một hôm ông biện luận với người chị của ông lúc ấy đang mang thai Xá-lợi-Phất và ông biện luận không lại bà chị. Ông nghĩ rằng những lần trước chị ta biện luận thua ta, nay chị ta biện luận hơn ta thì có lẽ lần này là do cái bào thai trong bụng tác động đến chị. Bây giờ ta thua chị chưa xấu hổ mấy vì ta là em, nhưng mai sau này mà thua cháu nữa thì xấu hổ biết mấy!

Ông cảm thấy hổ thẹn nên bỏ nhà ra đi, tầm sư học đạo để sau này trở thành người biện luận giỏi nhất thiên hạ và phải làm sao biện luận hơn người cháu của mình mới được.

Ông đi từ xứ nọ đến xứ kia để tìm thầy học. Người ta hỏi ông muốn học gì? Ông nói: Tôi muốn học hết tất cả kinh sách trong đời. Người ta bảo: Ông nói khoác, suốt đời ông học một bộ kinh đã được chưa mà nay bảo sẽ học hết kinh sách. Ông ta bực mình nói: Tôi ở nhà biện luận thì thua chị, đến đây thì bị mọi người châm biếm, chỉ trích.

Ông bắt đầu kể từ đó, học đến nỗi không có thì giờ cạo tóc, cạo râu, cắt móng tay. Vì thế người ta gọi ông là Phạm chí Trường-Trão có móng tay dài và râu tóc luộm thuộm.

Sau khi học xong ông tự thấy mình có khả năng biện tài vô ngại, không ai có thể đủ sức tranh luận với ông, ông bèn trở về nhà thăm chị và hỏi người cháu đó ở đâu. Bà chị bảo: Con tôi cháu cậu đã đi theo tu học với Sa môn Cù-đàm rồi. Ông hỏi: Sa môn Cù-đàm là người nào mà có thể làm cho cháu ta khuất phục mà nhận làm thầy, cháu ta là một người thông minh, tài giỏi từ khi còn trong bào thai?

Ông bèn đi tìm Xá-lợi-Phất. Khi đến chỗ Phật, ông nghĩ: Ông này đã thuyết phục được cháu ta làm đệ tử, chắc không phải là tay vừa. Bây giờ ta có nói gì chắc cũng sẽ bị bác bỏ, tức còn có ngôn ngữ luận bàn là còn quá dỡ. Nghĩ vậy, ông ta sẽ nói là không lãnh thọ gì hết.

Ông đến nơi gặp Sa môn Cù-đàm và nói rằng: Này Cù-đàm ông có biết không, tất cả pháp, tôi đều không thọ pháp nào cả. Không ngờ Phật hỏi lại: Vậy cái nhất thiết pháp chẳng thọ đó, ông có thọ không? Ông nghĩ: Bây giờ nói thọ thì mâu thuẫn quá, vừa mới nói không thọ đó mà bây giờ bảo có thọ làm sao được. Ông bèn trả lời không thọ. Phật nói: Ông không thọ thì ông cũng như bao nhiêu người khác, chứ ông có gì đặc biệt đâu mà ông tự kiêu hãnh, đến đây để biện tài tranh luận?

Như vậy, nếu chúng ta còn thọ một cái gì, còn chấp một cái gì là còn bị trói buộc, mê lầm vì còn chấp ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi có tu học chúng ta sẽ thấy rõ ràng tất cả thọ đều vô ngã.

Phật dạy: Tất cả thọ đều vô ngã, Chúng ta hay bị kẹt vào cảm giác, cho dù cảm giác đó mang đến cho ta sự vui vẻ hạnh phúc hay khổ đau tột cùng. Cảm giác sảng khoái chúng ta gọi là thọ lạc, cảm giác khó chịu chúng ta gọi là thọ khổ và cảm giác không sảng khoái hay khó chịu chúng ta gọi là thọ xả.

Cuộc sống của chúng ta đủ thứ cảm giác do ta thọ nhận không ngoài ba thứ: Thọ vui, thọ khổ, thọ không khổ không vui. Do chúng ta bám víu và thọ nhận vào cảm giác khoái lạc, nên ta chìm đắm trong cảm giác đó mong mỏi được bền bỉ và lâu dài, ngược lại khi chúng ta thọ nhận sự đau khổ ta cứ ghim gút nó vào lòng mà không tự thọ xả.

Chúng ta thường xuyên làm việc thiện lành tốt đẹp thì hay có cảm giác sảng khoái nhiều hơn người làm việc xấu ác. Người làm việc ác mà cảm thấy thỏa mãn là thứ cảm xúc vô cảm, loại người này luôn làm tổn hại nhân loại.

Một người đến chửi mắng ta, ta có cảm giác bực tức và khó chịu, cảm giác này phát sinh bởi do chấp trước có cái thân này là thật ngã nên ta đùng đùng nỗi giận tìm cách trã đũa người đó. Chúng ta thường phân biệt giữa thiện và ác nhiều hơn mà không chú ý đến thọ xả, do đó ta sẽ thấy vui khi có cảm giác dễ chịu và sẽ thấy ghét khi có cảm giác khó chịu.

Một vị tu sĩ được nhiều người tôn trọng, cung kính ái mộ và nên người đó cảm thấy hạnh phúc vì được nhiều người tán thán, nhưng cảm giác hạnh phúc này chính là sự tự hào hãnh diện về mình. Cùng một thọ khổ và thọ lạc với một đối tượng, chúng có thể mang lại cảm giác sảng khoái hay khó chịu khác nhau.

Chúng ta chánh niệm tỉnh giác về thọ để không bị tham đắm và dính mắc vào đó mà tạo ra sự khổ, Phật dạy pháp quán cảm thọ trong cảm thọ để chúng ta thấy rõ các cảm giác buồn, vui, thương, ghét… chỉ là do sự chấp trước của chúng ta mà thôi.

Trong hạnh phúcxen lẫn sự đau khổ, trong đau khổhạnh phúc và chẳng có gì thật sự gọi là đau khổ hay hạnh phúc cả, tất cả đều do ta chấp trước mà tạo ra sự khổ vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2627)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2512)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2414)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3219)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2289)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2382)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2511)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2172)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2550)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2620)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2675)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2521)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2555)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4038)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2755)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3020)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3282)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2771)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2845)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2596)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2607)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2254)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2360)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2464)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2709)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2115)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2800)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2873)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2905)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2483)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2757)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant