Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

10 Tháng Mười 201512:30(Xem: 9873)
Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

THÍ DỤ VỀ CHIẾC BÈ CỦA ĐỨC PHẬT 
The Buddha's Raft Parable

Barbara O'Brien
  Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật

 

Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật. Ngay cả những người biết rất ít về Phật Giáo, họ đã nghe nói đến câu chuyện về chiếc bè (hoặc là về chiếc thuyền, như ở trong những phiên bản khác).

Ý chính của câu chuyện như sau: Có một người đàn ông đang đi du hành trên con đường mòn, rồi ông gặp một vùng sông nước mênh mông. Khi ông đứng trên bờ, ông đã trông thấy nhiều điều nguy hiểm, nên ông cảm thấy phiền muộn. Tuy nhiên, ở bờ bên kia, ông nhìn thấy an toàn, nên ông mong muốn đi qua bên đó. 

Người đàn ông không tìm ra được một chiếc thuyền nào, hoặc một cây cầu nào cả. Tuy nhiên, sau khi ông nỗ lực làm việc, ông đã thu thập được nhiều cỏ, các cành cây nhỏ, các nhánh cây, rồi cột chúng lại, để làm thành một chiếc bè đơn giản. Nhờ có chiếc bè nổi trên mặt nước, ông lên chèo thuyền bằng đôi bàn tay, và bàn chân, rồi ông đã đến được bờ bên kia an toàn. Lúc nầy, ông có thể đi tiếp cuộc hành trình, trên đất liền.

Nhưng bây giờ, ông sẽ phải làm gì với chiếc bè tạm thời của ông đây? Ông sẽ kéo theo chiếc bè, hoặc là ông sẽ bỏ chiếc bè lại ở phía sau? Đức Phật nói rằng, ông nên để chiếc bè ở lại. Và, Đức Phật giải thích rằng, Phật Pháp giống như chiếc bè. Rồi, ngài nói tiếp, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ.

Câu truyện đơn giản nầy, đã truyền cảm hứng cho nhiều người, cho nên đã có nhiều lời giải thích khác nhau. Có phải Đức Phật nói rằng, Phật Pháp là một dụng cụ tạm thời, cho nên chúng ta có thể buông bỏ đi, sau khi chúng ta đã giác ngộ? Thí dụ về chiếc bè nầy, thường được nhiều người hiểu theo cách đó.

Nhiều người khác lại tranh luận rằng (qua những lý do được giải thích ở phần dưới đây), thí-dụ-về-chiếc-bè thật sự nói về việc làm thế nào để gìn giữ, và hiểu biết Lời Phật Dạy đúng theo lời dạy của ngài. Và, đôi khi một người nào đó, sẽ trích dẫn thí-dụ-về-chiếc-bè như là một cái cớ, để họ buông bỏ đi Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo), buông bỏ đi Các Giới Luật, và buông bỏ đi tất cả các phần còn lại của Lời Phật Dạy, bởi vì, cuối cùng họ nghĩ rằng, họ cũng sẽ phải buông bỏ đi tất cả.

BỐI CẢNH CỦA CÂU CHUYỆN

Thí-dụ-về-chiếc-bè xuất hiện trong Kinh Thí Dụ Về Con Rắn Nước (Alagaddupama) trong Kinh Tạng (Kinh Trung Bộ 22). Trong bài kinh nầy, Đức Phật đã thảo luận về sự quan trọng trong việc học hỏi Phật Pháp đúng đắn, và sự nguy hiểm của sự bám víu vào các quan điểm.

Bài kinh nầy bắt đầu bằng câu chuyện kể về nhà sư Arittha, người đã bám víu vào những quan điểm sai lầm, vì ông đã có sự hiểu lầm về Phật Pháp. Những nhà sư khác tranh luận với ông, nhưng nhà sư Arittha không chịu thay đổi cái nhìn của mình. Cuối cùng, họ xin Đức Phật đứng ra phân xử. Sau khi Đức Phật sửa chữa sự sai lầm của nhà sư Arittha, Đức Phật đã giải thích thêm, bằng cách ngài đưa ra hai thí dụ. Trong thí dụ thứ nhất, Đức Phật nói về con rắn nước, và trong thí dụ thứ nhì, ngài nói về chiếc bè.

Trong thí dụ đầu tiên, có một người đàn ông (không rõ vì lý do gì) đã đi ra ngoài kiếm con rắn nước. Chắc chắn là ông ta kiếm được con rắn nước rồi. Tuy nhiên, ông đã không bắt con rắn đúng cách, cho nên ông đã bị rắn cắn, và vết thương có nọc độc. Câu chuyện nầy được so sánh với một người cẩu thả, và thiếu chú ý khi học hỏi Phật Pháp, nên người nầy có những quan điểm nguy hiểm, và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

Thí-dụ-về-con-rắn-nước cũng dùng để giới thiệu, thí-dụ-về-chiếc-bè ở phần kế tiếp. Trong phần kết luận của thí-dụ-về-chiếc-bè, Đức Phật nói như sau,

"Nầy các Tỳ Kheo, cũng như thế, ta so sánh Phật Pháp giống như chiếc bè, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ. Khi chúng ta hiểu biết về Phật Pháp (như đã giảng-dạy) được ví-như chiếc-bè, chúng ta sẽ phải buông-bỏ Phật-Pháp, chứ đừng-nói những gì không-phải-là-Phật-Pháp." [Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu]

Hầu hết, phần còn lại của bài kinh nầy nói về vô ngã, hoặc không-phải-là-cái-tôi, là đề tài mà nhiều người đã thường hiểu lầm. Khi có sự hiểu lầm, chúng ta sẽ dễ dàng có những quan điểm nguy hiểm và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

HAI PHƯƠNG CÁCH GIẢI THÍCH 

Tác giả và cũng là học giả Phật Giáo Damien Keown, trong quyển sách Bản Chất Đạo Đức Của Phật Giáo (1992), đã lập luận rằng Phật Pháp trong câu chuyện trên - đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức, thiền định (định), và trí tuệ (tuệ) - là đại diện cho bờ-bên-kia, chứ không phải là đại diện cho chiếc-bè. Keown nói, thí-dụ-về-chiếc-bè thì không viết rằng, chúng ta sẽ buông bỏ Lời Phật Dạy, và giới luật khi chúng ta giác ngộ. Thay vào đó, chúng ta sẽ buông-bỏ sự hiểu biết không-hoàn-hảo, và tạm-thời về các giáo lý.

Học giả và cũng là nhà sư theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Thanissaro Bhikkhu, có một cái nhìn hơi khác, so với tác giả nói trên:

"... điểm nhấn mạnh của thí-dụ-về-con-rắn-nước là chúng ta phải nắm giữ Phật Pháp; tuy nhiên, chúng ta cần phải nắm giữ đúng cách. Điểm quan trọng nầy, sau đó được áp dụng cho thí-dụ-về-chiếc-bè, và ý tưởng nầy thì rất rõ ràng. Chúng ta phải nắm giữ chiếc bè cho đúng cách, để vượt qua sông. Chỉ khi nào chúng ta đã tới bờ bên kia an toàn rồi, chúng ta mới buông bỏ chiếc bè."

CHIẾC BÈ VÀ KINH KIM CƯƠNG

Những sự khác biệt trong thí-dụ-về-chiếc-bè cũng đã xuất hiện trong những bài kinh khác. Có một thí dụ đáng chú ý, được trông thấy trong chương thứ sáu của Kinh Kim Cương.

Nhiều bản dịch Anh Ngữ của Kinh Kim Cương đã có yếu điểm, vì người dịch cố gắng làm cho bài kinh dễ hiểu, cho nên chúng ta đã có nhiều phiên bản, đã được phổ biến khắp nơi trên thế giới. Sau đây là bản dịch của Red Pine:

"... các vị Bồ Tát không-sợ-hãi, can-đảm đã không-bám vào Phật-Pháp, các vị nầy cũng không-bám vào những gì không-phải-là-Phật-Pháp. Đây là ý nghĩa đằng sau câu nói của Đức Như Lai, 'Phật Pháp thì như chiếc bè. Nếu chúng ta sẽ phải buông bỏ Phật Pháp, thì chúng ta sẽ phải buông bỏ những gì không-phải-là-Phật-Pháp, một cách mau chóng hơn nữa.'"

Đoạn văn nhỏ nói trên của Kinh Kim Cương đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Theo cách hiểu biết thông thường, nếu là một vị Bồ Tát khôn ngoan, có trí tuệ, ngài sẽ nhận ra được sự hữu ích của Phật Pháp, nhưng ngài sẽ không bị dính mắc, cho nên, sau khi ngài làm xong công việc, ngài sẽ được tự do. "Không-phải-là-Phật-Pháp" đôi khi được giải thích là những vấn đề trần tục, hoặc là những sự giảng dạy của những tôn giáo khác.

Trong bối cảnh của Kinh Kim Cương, chúng ta sẽ thật là người ngu ngốc, nếu chúng ta xem đoạn văn trên như là một tờ giấy-cho-phép, để chúng ta buông bỏ đi các Lời Phật Dạy. Xuyên suốt bài kinh, Đức Phật dạy bảo chúng ta không nên ràng buộc với các khái niệm, ngay cả với các khái niệm về "Phật", và về "Pháp." Vì lý do đó, bất cứ lời giải thích nào về khái niệm của Kinh Kim Cương, sẽ làm cho chúng ta thất vọng (xin xem thêm "Ý Nghĩa Sâu Xa Của Kinh Kim Cương").

Và, nếu chúng ta hãy còn đang chèo thuyền, chúng ta cần phải chăm sóc chiếc bè của chúng ta.

The Buddha's Raft Parable

 

The raft parable is one of the best known of the Buddha's many parables and similes. Even people who know little else about Buddhism have heard the one about the raft (or, in some versions, a boat).

The basic story is this: A man traveling along a path came to a great expanse of water. As he stood on the shore, he realized there were dangers and discomforts all about. But the other shore appeared safe and inviting.

The man looked for a boat or a bridge and found neither. But with great effort he gathered grass, twigs and branches and tied them all together to make a simple raft. Relying on the raft to keep himself afloat, the man paddled with his hands and feet and reached the safety of the other shore. He could continue his journey on dry land.

Now, what would he do with his makeshift raft? Would he drag it along with him or leave it behind? He would leave it, the Buddha said. Then the Buddha explained that the dharma is like a raft. It is useful for crossing over but not for holding onto, he said.

This simple story has inspired more than one interpretation. Was the Buddha saying that the dharma is a kind of provisional appliance that can be discarded when one is enlightened? That is how the parable often is understood.

Others argue (for reasons explained below) that it is really about how to properly hold, or understand, the Buddha's teaching. And occasionally someone will cite the raft parable as an excuse to ignore the Eightfold Path, the Precepts, and the rest of the Buddha's teachings altogether, since you're going to ditch them, anyway.

THE STORY IN CONTEXT

The raft parable appears in the Alagaddupama (Water Snake Simile) Sutta of the Sutta-pitaka (Majjhima Nikaya 22). In this sutta, the Buddha discusses the importance of learning the dharma properly and the danger of clinging to views.

The sutta begins with an account of the monk Arittha, who was clinging to flawed views based on misunderstanding of the dharma. The other monks argued with him, but Arittha would not budge from his position. Eventually the Buddha was called upon to arbitrate. After correcting Arittha's misunderstanding, the Buddha followed up with two parables. The first parable is about a water snake, and the second is our parable of the raft.

In the first parable, a man (for reasons unexplained) went out looking for a water snake. And, sure enough, he found one. But he did not properly grasp the snake, and it gave him a poisonous bite.  This is compared to someone whose sloppy and inattentive study of the dharma leads to wrong-headed views.

The water snake parable introduces the raft parable. At the conclusion of the raft parable, the Buddha said,

"In the same way, monks, I have taught the Dhamma [dharma] compared to a raft, for the purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas, to say nothing of non-Dhammas." [Thanissaro Bhikkhu translation]

Most of the rest of the sutta is about anatta, or not-self, which is a widely misunderstood teaching. How easily can misunderstanding lead to wrong-headed views!

TWO INTERPRETATIONS

Buddhist author and scholar Damien Keown argues, in The Nature of Buddhist Ethics (1992), that dharma - in particular morality, samadhi, and wisdom - are represented in the story by the other shore, not by the raft. The raft parable is not telling us that we will abandon the Buddha's teaching and precepts upon enlightenment, Keown says. Rather, we will let go of provisional and imperfect understanding of the teachings.

Theravadin monk and scholar Thanissaro Bhikkhu has a slightly different view:

"...the simile of the water-snake makes the point that the Dhamma has to be grasped; the trick lies in grasping it properly. When this point is then applied to the raft simile, the implication is clear: One has to hold onto the raft properly in order to cross the river. Only when one has reached the safety of the further shore can one let go."

THE RAFT AND THE DIAMOND SUTRA

Variations on the raft parable appear in other scriptures. One notable example is found in the sixth chapter of the Diamond Sutra.

Many English translations of the Diamond suffer from the translators' attempts to make sense of it, and versions of this chapter are all over the map, so to speak. This is from Red Pine's translation:

"...fearless bodhisattvas do not cling to a dharma, much less to no dharma. This is the meaning behind the Tathagata's saying, 'A dharma teaching is like a raft. If you should let go of dharmas, how much more so no dharmas.'"

This bit of the Diamond Sutra also has been interpreted in various ways. A common understanding is that a wise bodhisattva recognizes the usefulness of dharma teachings without becoming attached to them, so that they are released when they have done their work. "No dharma" is sometimes explained as worldly matters or to the teachings of other traditions.

In the context of the Diamond Sutra, it would be foolish to consider this passage as a permission slip to ignore dharma teachings altogether. Throughout the sutra, the Buddha instructs us to not be bound by concepts, even concepts of "Buddha" and "dharma." For that reason, any conceptual interpretation of the Diamond will fall short (see "The Deeper Meaning of the Diamond Sutra").

And as long as you're still paddling, take care of the raft.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9574)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
(Xem: 10291)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
(Xem: 9458)
Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.
(Xem: 9627)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11271)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9580)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10053)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9316)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 8936)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11245)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11328)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9571)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8217)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9525)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9761)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9160)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9684)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9675)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8150)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9075)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22504)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9352)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17788)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10113)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10642)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10860)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9723)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9369)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10354)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9452)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10615)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9643)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15411)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8530)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11142)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9279)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8563)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8798)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14585)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12713)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9631)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9267)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 14728)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9105)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10541)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10495)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9609)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
(Xem: 9473)
Họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có
(Xem: 10336)
Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra.
(Xem: 9802)
Không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant