Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

10 Tháng Mười 201512:30(Xem: 9951)
Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

THÍ DỤ VỀ CHIẾC BÈ CỦA ĐỨC PHẬT 
The Buddha's Raft Parable

Barbara O'Brien
  Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật

 

Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật. Ngay cả những người biết rất ít về Phật Giáo, họ đã nghe nói đến câu chuyện về chiếc bè (hoặc là về chiếc thuyền, như ở trong những phiên bản khác).

Ý chính của câu chuyện như sau: Có một người đàn ông đang đi du hành trên con đường mòn, rồi ông gặp một vùng sông nước mênh mông. Khi ông đứng trên bờ, ông đã trông thấy nhiều điều nguy hiểm, nên ông cảm thấy phiền muộn. Tuy nhiên, ở bờ bên kia, ông nhìn thấy an toàn, nên ông mong muốn đi qua bên đó. 

Người đàn ông không tìm ra được một chiếc thuyền nào, hoặc một cây cầu nào cả. Tuy nhiên, sau khi ông nỗ lực làm việc, ông đã thu thập được nhiều cỏ, các cành cây nhỏ, các nhánh cây, rồi cột chúng lại, để làm thành một chiếc bè đơn giản. Nhờ có chiếc bè nổi trên mặt nước, ông lên chèo thuyền bằng đôi bàn tay, và bàn chân, rồi ông đã đến được bờ bên kia an toàn. Lúc nầy, ông có thể đi tiếp cuộc hành trình, trên đất liền.

Nhưng bây giờ, ông sẽ phải làm gì với chiếc bè tạm thời của ông đây? Ông sẽ kéo theo chiếc bè, hoặc là ông sẽ bỏ chiếc bè lại ở phía sau? Đức Phật nói rằng, ông nên để chiếc bè ở lại. Và, Đức Phật giải thích rằng, Phật Pháp giống như chiếc bè. Rồi, ngài nói tiếp, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ.

Câu truyện đơn giản nầy, đã truyền cảm hứng cho nhiều người, cho nên đã có nhiều lời giải thích khác nhau. Có phải Đức Phật nói rằng, Phật Pháp là một dụng cụ tạm thời, cho nên chúng ta có thể buông bỏ đi, sau khi chúng ta đã giác ngộ? Thí dụ về chiếc bè nầy, thường được nhiều người hiểu theo cách đó.

Nhiều người khác lại tranh luận rằng (qua những lý do được giải thích ở phần dưới đây), thí-dụ-về-chiếc-bè thật sự nói về việc làm thế nào để gìn giữ, và hiểu biết Lời Phật Dạy đúng theo lời dạy của ngài. Và, đôi khi một người nào đó, sẽ trích dẫn thí-dụ-về-chiếc-bè như là một cái cớ, để họ buông bỏ đi Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo), buông bỏ đi Các Giới Luật, và buông bỏ đi tất cả các phần còn lại của Lời Phật Dạy, bởi vì, cuối cùng họ nghĩ rằng, họ cũng sẽ phải buông bỏ đi tất cả.

BỐI CẢNH CỦA CÂU CHUYỆN

Thí-dụ-về-chiếc-bè xuất hiện trong Kinh Thí Dụ Về Con Rắn Nước (Alagaddupama) trong Kinh Tạng (Kinh Trung Bộ 22). Trong bài kinh nầy, Đức Phật đã thảo luận về sự quan trọng trong việc học hỏi Phật Pháp đúng đắn, và sự nguy hiểm của sự bám víu vào các quan điểm.

Bài kinh nầy bắt đầu bằng câu chuyện kể về nhà sư Arittha, người đã bám víu vào những quan điểm sai lầm, vì ông đã có sự hiểu lầm về Phật Pháp. Những nhà sư khác tranh luận với ông, nhưng nhà sư Arittha không chịu thay đổi cái nhìn của mình. Cuối cùng, họ xin Đức Phật đứng ra phân xử. Sau khi Đức Phật sửa chữa sự sai lầm của nhà sư Arittha, Đức Phật đã giải thích thêm, bằng cách ngài đưa ra hai thí dụ. Trong thí dụ thứ nhất, Đức Phật nói về con rắn nước, và trong thí dụ thứ nhì, ngài nói về chiếc bè.

Trong thí dụ đầu tiên, có một người đàn ông (không rõ vì lý do gì) đã đi ra ngoài kiếm con rắn nước. Chắc chắn là ông ta kiếm được con rắn nước rồi. Tuy nhiên, ông đã không bắt con rắn đúng cách, cho nên ông đã bị rắn cắn, và vết thương có nọc độc. Câu chuyện nầy được so sánh với một người cẩu thả, và thiếu chú ý khi học hỏi Phật Pháp, nên người nầy có những quan điểm nguy hiểm, và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

Thí-dụ-về-con-rắn-nước cũng dùng để giới thiệu, thí-dụ-về-chiếc-bè ở phần kế tiếp. Trong phần kết luận của thí-dụ-về-chiếc-bè, Đức Phật nói như sau,

"Nầy các Tỳ Kheo, cũng như thế, ta so sánh Phật Pháp giống như chiếc bè, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ. Khi chúng ta hiểu biết về Phật Pháp (như đã giảng-dạy) được ví-như chiếc-bè, chúng ta sẽ phải buông-bỏ Phật-Pháp, chứ đừng-nói những gì không-phải-là-Phật-Pháp." [Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu]

Hầu hết, phần còn lại của bài kinh nầy nói về vô ngã, hoặc không-phải-là-cái-tôi, là đề tài mà nhiều người đã thường hiểu lầm. Khi có sự hiểu lầm, chúng ta sẽ dễ dàng có những quan điểm nguy hiểm và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

HAI PHƯƠNG CÁCH GIẢI THÍCH 

Tác giả và cũng là học giả Phật Giáo Damien Keown, trong quyển sách Bản Chất Đạo Đức Của Phật Giáo (1992), đã lập luận rằng Phật Pháp trong câu chuyện trên - đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức, thiền định (định), và trí tuệ (tuệ) - là đại diện cho bờ-bên-kia, chứ không phải là đại diện cho chiếc-bè. Keown nói, thí-dụ-về-chiếc-bè thì không viết rằng, chúng ta sẽ buông bỏ Lời Phật Dạy, và giới luật khi chúng ta giác ngộ. Thay vào đó, chúng ta sẽ buông-bỏ sự hiểu biết không-hoàn-hảo, và tạm-thời về các giáo lý.

Học giả và cũng là nhà sư theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Thanissaro Bhikkhu, có một cái nhìn hơi khác, so với tác giả nói trên:

"... điểm nhấn mạnh của thí-dụ-về-con-rắn-nước là chúng ta phải nắm giữ Phật Pháp; tuy nhiên, chúng ta cần phải nắm giữ đúng cách. Điểm quan trọng nầy, sau đó được áp dụng cho thí-dụ-về-chiếc-bè, và ý tưởng nầy thì rất rõ ràng. Chúng ta phải nắm giữ chiếc bè cho đúng cách, để vượt qua sông. Chỉ khi nào chúng ta đã tới bờ bên kia an toàn rồi, chúng ta mới buông bỏ chiếc bè."

CHIẾC BÈ VÀ KINH KIM CƯƠNG

Những sự khác biệt trong thí-dụ-về-chiếc-bè cũng đã xuất hiện trong những bài kinh khác. Có một thí dụ đáng chú ý, được trông thấy trong chương thứ sáu của Kinh Kim Cương.

Nhiều bản dịch Anh Ngữ của Kinh Kim Cương đã có yếu điểm, vì người dịch cố gắng làm cho bài kinh dễ hiểu, cho nên chúng ta đã có nhiều phiên bản, đã được phổ biến khắp nơi trên thế giới. Sau đây là bản dịch của Red Pine:

"... các vị Bồ Tát không-sợ-hãi, can-đảm đã không-bám vào Phật-Pháp, các vị nầy cũng không-bám vào những gì không-phải-là-Phật-Pháp. Đây là ý nghĩa đằng sau câu nói của Đức Như Lai, 'Phật Pháp thì như chiếc bè. Nếu chúng ta sẽ phải buông bỏ Phật Pháp, thì chúng ta sẽ phải buông bỏ những gì không-phải-là-Phật-Pháp, một cách mau chóng hơn nữa.'"

Đoạn văn nhỏ nói trên của Kinh Kim Cương đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Theo cách hiểu biết thông thường, nếu là một vị Bồ Tát khôn ngoan, có trí tuệ, ngài sẽ nhận ra được sự hữu ích của Phật Pháp, nhưng ngài sẽ không bị dính mắc, cho nên, sau khi ngài làm xong công việc, ngài sẽ được tự do. "Không-phải-là-Phật-Pháp" đôi khi được giải thích là những vấn đề trần tục, hoặc là những sự giảng dạy của những tôn giáo khác.

Trong bối cảnh của Kinh Kim Cương, chúng ta sẽ thật là người ngu ngốc, nếu chúng ta xem đoạn văn trên như là một tờ giấy-cho-phép, để chúng ta buông bỏ đi các Lời Phật Dạy. Xuyên suốt bài kinh, Đức Phật dạy bảo chúng ta không nên ràng buộc với các khái niệm, ngay cả với các khái niệm về "Phật", và về "Pháp." Vì lý do đó, bất cứ lời giải thích nào về khái niệm của Kinh Kim Cương, sẽ làm cho chúng ta thất vọng (xin xem thêm "Ý Nghĩa Sâu Xa Của Kinh Kim Cương").

Và, nếu chúng ta hãy còn đang chèo thuyền, chúng ta cần phải chăm sóc chiếc bè của chúng ta.

The Buddha's Raft Parable

 

The raft parable is one of the best known of the Buddha's many parables and similes. Even people who know little else about Buddhism have heard the one about the raft (or, in some versions, a boat).

The basic story is this: A man traveling along a path came to a great expanse of water. As he stood on the shore, he realized there were dangers and discomforts all about. But the other shore appeared safe and inviting.

The man looked for a boat or a bridge and found neither. But with great effort he gathered grass, twigs and branches and tied them all together to make a simple raft. Relying on the raft to keep himself afloat, the man paddled with his hands and feet and reached the safety of the other shore. He could continue his journey on dry land.

Now, what would he do with his makeshift raft? Would he drag it along with him or leave it behind? He would leave it, the Buddha said. Then the Buddha explained that the dharma is like a raft. It is useful for crossing over but not for holding onto, he said.

This simple story has inspired more than one interpretation. Was the Buddha saying that the dharma is a kind of provisional appliance that can be discarded when one is enlightened? That is how the parable often is understood.

Others argue (for reasons explained below) that it is really about how to properly hold, or understand, the Buddha's teaching. And occasionally someone will cite the raft parable as an excuse to ignore the Eightfold Path, the Precepts, and the rest of the Buddha's teachings altogether, since you're going to ditch them, anyway.

THE STORY IN CONTEXT

The raft parable appears in the Alagaddupama (Water Snake Simile) Sutta of the Sutta-pitaka (Majjhima Nikaya 22). In this sutta, the Buddha discusses the importance of learning the dharma properly and the danger of clinging to views.

The sutta begins with an account of the monk Arittha, who was clinging to flawed views based on misunderstanding of the dharma. The other monks argued with him, but Arittha would not budge from his position. Eventually the Buddha was called upon to arbitrate. After correcting Arittha's misunderstanding, the Buddha followed up with two parables. The first parable is about a water snake, and the second is our parable of the raft.

In the first parable, a man (for reasons unexplained) went out looking for a water snake. And, sure enough, he found one. But he did not properly grasp the snake, and it gave him a poisonous bite.  This is compared to someone whose sloppy and inattentive study of the dharma leads to wrong-headed views.

The water snake parable introduces the raft parable. At the conclusion of the raft parable, the Buddha said,

"In the same way, monks, I have taught the Dhamma [dharma] compared to a raft, for the purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas, to say nothing of non-Dhammas." [Thanissaro Bhikkhu translation]

Most of the rest of the sutta is about anatta, or not-self, which is a widely misunderstood teaching. How easily can misunderstanding lead to wrong-headed views!

TWO INTERPRETATIONS

Buddhist author and scholar Damien Keown argues, in The Nature of Buddhist Ethics (1992), that dharma - in particular morality, samadhi, and wisdom - are represented in the story by the other shore, not by the raft. The raft parable is not telling us that we will abandon the Buddha's teaching and precepts upon enlightenment, Keown says. Rather, we will let go of provisional and imperfect understanding of the teachings.

Theravadin monk and scholar Thanissaro Bhikkhu has a slightly different view:

"...the simile of the water-snake makes the point that the Dhamma has to be grasped; the trick lies in grasping it properly. When this point is then applied to the raft simile, the implication is clear: One has to hold onto the raft properly in order to cross the river. Only when one has reached the safety of the further shore can one let go."

THE RAFT AND THE DIAMOND SUTRA

Variations on the raft parable appear in other scriptures. One notable example is found in the sixth chapter of the Diamond Sutra.

Many English translations of the Diamond suffer from the translators' attempts to make sense of it, and versions of this chapter are all over the map, so to speak. This is from Red Pine's translation:

"...fearless bodhisattvas do not cling to a dharma, much less to no dharma. This is the meaning behind the Tathagata's saying, 'A dharma teaching is like a raft. If you should let go of dharmas, how much more so no dharmas.'"

This bit of the Diamond Sutra also has been interpreted in various ways. A common understanding is that a wise bodhisattva recognizes the usefulness of dharma teachings without becoming attached to them, so that they are released when they have done their work. "No dharma" is sometimes explained as worldly matters or to the teachings of other traditions.

In the context of the Diamond Sutra, it would be foolish to consider this passage as a permission slip to ignore dharma teachings altogether. Throughout the sutra, the Buddha instructs us to not be bound by concepts, even concepts of "Buddha" and "dharma." For that reason, any conceptual interpretation of the Diamond will fall short (see "The Deeper Meaning of the Diamond Sutra").

And as long as you're still paddling, take care of the raft.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9978)
Hầu như người đời ai cũng có lần giận dữ chỉ là sự thường. Thế nhưng nhà Phật cho giận dữ là một trong những trạng thái tâm lý quan trọng...
(Xem: 12832)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10919)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 10015)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10325)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11231)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9959)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10212)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9652)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10035)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8793)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8532)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10067)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 10022)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9440)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10586)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9127)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10510)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11300)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8510)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12629)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10160)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8455)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9676)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9516)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8132)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9987)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9247)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13370)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9563)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8683)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10342)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8657)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8626)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14220)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10221)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8619)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11503)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11872)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8805)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8137)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9443)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10419)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8767)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8864)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16148)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9969)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11448)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10195)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8362)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant