Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sức Mạnh Của Từ Bi

13 Tháng Mười 201511:14(Xem: 11157)
Sức Mạnh Của Từ Bi

SỨC MẠNH CỦA TỪ BI

Nguyên Giác

Sức Mạnh Của Từ Bi

 

Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.

Bài viết tựa đề “The Buddhist and the Neuroscientist: What compassion does to the brain” (Người Phật Tử và Nhà Khoa Học về Thần Kinh: Từ bi ảnh hưởng não bộ thế nào) trên tạp chí The Atlantic ngày 4 tháng 7-2015 ghi nhận một cuộc nghiên cứu về sức mạnh của từ bi. Người Phật tử đây là Đức Đạt Lai Lạt Ma; nhà khoa học là Richard Davidson.

Tác giả bài viết là Kathy Gilsinan, một biên tập viên của tạp chí The Atlantic, phụ trách về các vấn đề thế giới. Bà trước đây là một biên tập viên của tạp chí World Politics Review. Bản dịch toàn văn như sau.

***

Năm 1992, nhà khoa học về thần kinh hệ Richard Davidson được Đức Đạt Lai Lạt Ma thách thức. Cho tới lúc đó, nhà khoa học này đã để trọn sự nghiệp vào cuộc nghiên cứu rằng tại sao người ta phản ứng với, trong chữ của ông là, “những giàng ná và mũi tên của cuộc đời” trong những cách khác nhau. Tại sao một vài người kham nhẫn mạnh mẽ hơn những người khác khi đối diện với thảm kịch? Và sự kham nhẫn mạnh mẽ bạn có thể có được xuyên qua thực tập hay không?

Đức Đạt Lai Lạt Ma có một câu hỏi khác cho Davidson khi nhà khoa học tới thăm vị lãnh đạo tinh thần Phật Giáo Tây Tạng tại bản doanh ở Dharamsala, Ấn Độ. “Nhà sư nói: ‘Ngài trước giờ sử dụng công cụ khoa học thần kinh hiện đại để nghiên cứu về sự trầm cảm, sự lo lắng, và sự sợ hãi. Tại sao ngài không sử dụng cùng các công cụ đó để nghiên cứu về sự tử tế và từ bi?’… Tôi lúc đó không có một câu trả lời rất tốt. Tôi nói, như thế là khó đấy.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma quan tâm về những gì các công cụ của khoa học thần kinh hiện đại có thể hé mở về não bộ của những người đã để ra nhiều năm, theo cách nói trong chữ của Davidson, “trưởng dưỡng các phẩm chất của tâm, và phẩm chất tâm này quảng bá một cái nhìn tích cực.” Không lâu sau đó, kết quả là Davidson mang hàng loạt các nhà sư Phật Giáo vào phòng thí nghiệm của ông và gắn những điện cực vào đầu của họ, hay chiêu đãi tiếp tân họ trong vài giờ trong một máy MRI.

“Cách tốt nhất để khởi động các mạch điện cảm xúc tích cực trong não bộ là xuyên qua tâm độ lượng,” theo lời Davidson, người sáng lập Center for Investigating Healthy Minds (Trung Tâm Nghiên Cứu Về Não Bộ Lành Mạnh) tại đại học University of Wisconsin, ở thành phố Madison, nói trong một cuộc diễn thuyết ở Aspen Ideas Festival. “Đây thực sự là một kiểu kích động tìm hiểu khoa học thần kinh vì đã có những viên ngọc trí tuệ trong truyền thống thiền định – Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói về điều này – rằng cách tốt nhất cho chúng ta rằng để hạnh phúc là hãy độ lượng với người khác. Và sự thực, chứng cớ khoa học cho thấy trong nhiều cách chân lý đó, và cho thấy rằng sự biến đổihệ thống trong não bộ có liên hệ tới hành vi độ lượng.”

Davidson và các nhà khoa học đồng viện thực hiện một thí nghiệm đơn giản trên tám “người tu học Phật Giáo nhiều năm” – những vị này đã để ra trung bình 34,000 giờ luyện tâm. Các nhà khoa học yêu cầu người được thí nghiệm hãy thay đổi qua lại giữa trạng thái tâm thiền định và một trạng thái tâm trung tính nhằm quan sát xem não bộ biến đổi ra sao. Một vị sư mô tả việc thiền định của vị này là khởi lên “một trạng thái trong đó yêu thươngtừ bi lan tỏa khắp toàn bộ tâm, với không một niệm gì khác, không lý luận gì khác, không xem xét gì khác.”

Davidson nói, “Khi chúng tôi thí nghiệm như thế, chúng tôi nhận ra một số điểm đáng nói. Những gì chúng tôi thấy là các hình sóng gamma độ cao trong não bộ, nghĩa là dấu hiệu của tâm nhu hòa" – nghĩa là những não bộ đó dễ hơn trong việc biến đổi, để thí dụ, về mặt lý thuyết, để trở thành kham nhẫn hơn. Các nhà nghiên cứu cũng thấy trong các cuộc đo máy MRI trên các vị sư rằng một khu vực não bộ có tên là anterior insula được kích hoạt. 

Davidson nói, “Tất cả các nhà khoa học thần kinh sẽ có phần quan tâm ưa thích của họ trong não bộ. Phần anterior insula là một trong phần đó, vì đó là nơi sự phối hợp tâm-thân xảy ra. Hệ thống trong não bộ hỗ trợ cho sự lành mạnh của chúng ta được nối kết chặt chẽ với các hệ thống cơ phận khác trong thân chúng ta, và cũng nối kết với hệ miễn nhiễm và hệ kích thích tố trong những cách ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng ta. Các bản chụp scan não bộ cho thấy rằng từ bi là một trạng thái liên hệ tới thân trong một cách quan trọng.”

 Một thí dụ: Davidson và các nhà khoa học trong nhóm nghiên cứu này đã thấy trong một cuộc nghiên cứu khác rằng thiền tập cải thiện phản ứng miễn nhiễm đối với một thuốc vaccine ngừa cúm – và những người được thí nghiệm không phải là các vị chuyên gia tập thiền Phật Giáo, mà chỉ là những người vừa mới trải qua chương trình dài 8 tuần lễ về thiền chánh niệm

Davidson và các nhà nghiên cứu cũng thấy trong một cuộc nghiên cứu năm 2013 rằng người dự một khóa “thiền tập về tâm từ bi” ngắn hạn cho thấy có thái độ hy sinh kham nhẫn hơn so với một nhóm đối tượng khác.

Nghiên cứu về não bộ các Phật Tử đã phổ biến hơn kể từ khi Davidson lần đầu gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng vẫn chưa biết chính xác về cách tâm từ bi thay đổi não bộ để làm cho sức khỏe tốt hơn hay làm cho thái độ ứng xử tốt hơn. Các làn sóng gamma và khu vực insula trong não bộ phựt sáng chỉ có thể nói rằng có sự nối kết giữa tâm và thân, và rồi, về điều nó làm cho bạn tự nghĩ về một phẩm cách tốt đẹp hơn.

Davidson nói rằng nghiên cứu cho thấy rằng “chúng ta có thể mang trách nhiệm đối với não bộ của chúng ta.” Trong đó, tự trưởng dưỡng trách nhiệm có thể là bước đầu tiên.

Bản văn gốc ở đây:

http://www.theatlantic.com/health/archive/2015/07/dalai-lama-neuroscience-compassion/397706/
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2758)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2233)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2365)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2675)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2324)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2547)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2553)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3053)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2721)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3008)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2572)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2612)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4113)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2780)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2521)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3008)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2874)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2616)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3192)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2278)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2488)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2604)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3274)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2561)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2825)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2919)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2951)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant