Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chiến Đấu Với Phiền Não

11 Tháng Mười Một 201506:38(Xem: 10242)
Chiến Đấu Với Phiền Não

CHIẾN ĐẤU VỚI PHIỀN NÃO

Ajahn Chah - Thích Huệ Phát chuyển ngữ

(Trích dịch từ Food for the Heart của Thiền sư Ajahn Chah)

Chiến Đấu Với Phiền Não


Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù. Trong tu tập theo con đường của Bụt, chúng ta chiến đấu với phiền não bằng sự kham nhẫn. Chúng ta chiến đấu bằng cách chịu đựng vô số tâm trạng của chúng ta.

Nơi nào có phiền não thì nơi đó có người chiến thắng phiền não. Đây được gọi là chiến đấu với giặc lòng (trong thâm tâm). Để chiến đấu với những kẻ thù bên ngoài thì cần bom đạn và súng ống; họ chiến thắng và chiến bại. Chiến thắng người khác là con đường của thế gian. Chúng ta không chiến đấu với những người khác mà là chiến thắng nội tâm của chúng ta bằng sự kiên trì kham nhẫnchịu đựng tất cả.

Khi phiền não đến chúng ta không nuôi dưỡng sự oán hậnthù hằn, mà thay vào đó là sự buông bỏ tất cả những hình thái của ác tâm trong hành động và suy nghĩ của chúng ta, tự mình thoát khỏi lòng ghen tị, ác cảm, oán giận. Lòng căm thù chỉ có thể vượt qua bằng sự không nuôi dưỡng oán hậnchịu đựng hận thù.

Hành động tổn thươngtrả thù là khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ. Một khi hành động thực hiện xong thì không cần đáp trả bằng báo thù. Đây được gọi là nghiệp (kamma). Trả thù nghĩa là tiếp tục hành động thêm nữa với suy nghĩ: “Anh đã làm điều đó với tôi, tôi sẽ cho anh biết thế nào là lễ độ”. Hận thù không kết thúc như vậy. Nó mang đến sự liên tục theo đuổi trả thù và vì thế hận thù không bao giờ được từ bỏ. Chừng nào mà chúng ta cư xử như vậy thì chuỗi hận thù này vẫn còn không bị phá vỡ. Cho dù chúng ta đi đâu hận thù vẫn tiếp tục.

Bụt (Buddha) đã dạy: Thế gian này, anh có lòng thương (karunā) đối với tất cả mọi người thế gian tuy nhiên người thế gian thì không như vậy với anh. Người khôn ngoan nên nhìn vào điều này và chọn những thứ có giá trị thực sự. Bụt đã được đào tạo trong các loại hình nghệ thuật của chiến tranh như một hoàng tử nhưng Ngài nhận thấy rằng chúng không thật sự hữu ích, chúng bị giới hạn trong chiếu đấu và xâm lược.

Cho nên, trong việc rèn luyện bản thân chúng ta với tư cách là những người từ bỏ thế tục, chúng ta phải học từ bỏ tất cả những điều ác, từ bỏ tất cả những nguyên nhân gây ra sự thù hằn. Chúng ta chiến thắng bản thân mình không chiến thắng những người khác. Chúng ta chiến đấu nhưng chỉ chiến đấu với phiền não; nếu có tham chúng ta chiến đấu với lòng tham; nếu có căm ghét chúng ta chiến đấu với sự căm ghét; nếu có mê lầm chúng ta nỗ lực từ bỏ nó.

Đây được gọi là “Chiến đấu với phiền não”. Chiến đấu với giặc lòng thật khó, thật sự nó khó nhất. Chúng ta trở thành những Tăng sĩ trong Tăng đoàn để quán chiếu điều này, để học nghệ thuật chiến đấu với lòng tham, ác cảm, và sự mê lầm. Đây là trách nhiệm chủ yếu của chúng ta.

Đây là cuộc chiến đấu bên trong, chiến đấu với những phiền não. Nhưng có rất ít người chiến đấu như vậy. Đa số con người chiến đấu với những điều khác, họ ít khi chiến đấu với phiền não. Thậm chí họ hiếm khi trông thấy chúng.

Bụt dạy chúng ta phải từ bỏ tất cả những điều ác và trau dồi đức hạnh. Đây là con đường chân chính. Dạy theo cách này là như Bụt mang chúng ta lên và đặt vào phần đầu của con đường. Đến con đường, có đi trên con đường đó hay không là tùy thuộc vào chúng ta. Công việc của Bụt là kết thúc ngay đó. Ngài chỉ đường nào đúng, đường nào sai. Bấy nhiêu là đủ, phần còn lại tùy thuộc vào chúng ta.

Bây giờ, đến con đường, chúng ta vẫn không biết bất cứ điều gì, chúng ta vẫn không thấy bất cứ thứ gì, cho nên chúng ta phải học. Để học, chúng ta phải vui lòng chịu đựng một chút khó khăn giống như sinh viên trên thế giới. Đủ khó để được hiểu biết và kỹ năng cần thiết để họ theo đuổi sự nghiệp. Họ phải chịu đựng. Khi họ nghĩ không đúng, cảm giác chống đối hay lười biếng, họ phải bắt buộc bản thân trước khi tốt nghiệp và có được một cái nghề. Sự tu tập đối với một Tăng sĩ cũng như vậy. Nếu chúng ta quyết tâm tu tập thiền quán, chắc chắn chúng ta sẽ thấy con đường.

Ngã kiến (ditthimana) là điều có hại. Ditthi nghĩa là sự nhìn hay quan điểm. Tất cả các hình thức của sự nhìn gọi là ditthi: thấy lành là dữ, thấy dữ là lành, v.v… bất cứ cách nào mà chúng ta nhìn thấy mọi thứ. Điều này không sao. Vấn đề nằm ở việc dính mắc vào những cái thấy đó, gọi là cái ta (mana); nắm giữ những cái thấy này như thể chúng là sự thật. Điều này dẫn chúng ta vào vòng sinh tử luân hồi không bao giờ dứt, chỉ vì sự dính mắc. Vì vậy, Bụt đã kêu gọi chúng ta rời bỏ những cái thấy ấy.

Nếu có nhiều người sống với nhau như chúng ta làm ở đây, họ vẫn có thể tu tập thoải mái nếu quan điểm của họ hài hòa. Nếu quan điểm của họ không tốt hay không hài hòa thì ngay cả hai hoặc ba Tăng sĩ thôi là sẽ gặp khó khăn. Khi chúng ta tự hạ mìnhbuông xả những cái thấy của chúng ta, ngay cả khi có rất nhiều người, chúng ta cùng nhau đến với Tam bảo.

Không đúng để nói rằng sẽ có bất hòa chỉ vì nhiều người. Hãy nhìn một sinh vật nhiều chân. Thoạt nhìn, bạn sẽ nghĩ nó di chuyển khó khăn nhưng thật sự thì không. Nó có thứ tự và sự nhịp nhàng của riêng nó. Trong sự tu tập cũng vậy, nếu chúng ta tu tập như một vị thánh tăng của Bụt đã tu tập thì nó trở nên dễ dàng. Đó là người tu tập tốt, người tu tập chính trực, người tu tập để vượt qua khổ đau, và người tu tập hết mình. Bốn phẩm chất này hình thành sẽ làm cho chúng ta trở thành một thành viên thật sự của đoàn thể xuất sĩ.

Thậm chí chúng ta là thành viên trong đoàn thể hàng trăm hay hàng ngàn người, đông bao nhiêu cũng không là vấn đề, chúng ta đi trên cùng một con đường. Chúng ta đến từ những tầng lớp xã hội khác nhau nhưng giống nhau. Mặc dầu quan điểm chúng ta có thể khác, nếu chúng ta tu tập đúng sẽ không có sự bất đồng. Cũng giống như tất cả những con sông và suối đều đổ ra biển… một khi đi vào biển thì tất cả chúng có cùng màu sắc và hương vị. Con người cũng vậy, khi họ đi vào giáo pháp thì nó là một. Mặc dầu họ đến từ những nơi khác nhau nhưng họ đoàn kết và hòa hợp.

Ngã kiếnnguyên nhân của tất cả các tranh chấpxung đột. Vì thế, Bụt dạy chúng ta buông bỏ ngã kiến, không cho phép cái ta bám víu vào những cái thấy sai lầm.

Bụt đã dạy giá trị của niệm (sati) kiên định. Cho dù chúng ta đang đứng, đi bộ, ngồi hay nằm, bất kỳ ở đâu, chúng ta cần phảisức mạnh của niệm. Khi có niệm chúng ta thấy bản thân chúng ta, những tâm của riêng mình. Chúng ta thấy “thân trong thân”, “tâm trong tâm”. Nếu chúng ta không có niệm chúng ta không biết bất cứ điều gì, không nhận thức được điều gì đang xảy ra.

Vì vậy, niệm rất quan trọng. Với niệm kiên định, chúng ta sẽ nghe giáo pháp của Bụt mọi lúc. Bởi vì, mắt thấy các hình dáng, tai nghe những âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, cơ thể cảm giác những sự xúc chạm, khi những cảm giác sinh khởi trong tâm v.v… đều là giáo pháp. Vì thế một người có niệm kiên định luôn nghe giáo pháp. Giáo pháp luôn ở đó. Tại sao? Bởi vì niệm, vì chúng ta tỉnh thức.

Sati là niệm, sampajañña là sự tỉnh thức, sự tỉnh thức này là Bụt hiện tại. Khi có niệm tỉnh thức, sự hiểu biết sẽ đi theo. Chúng ta biết những gì đang xảy ra. Khi mắt thấy những hình dáng: hình dáng này phù hợp hay không phù hợp? Khi tai nghe âm thanh: âm thanh này thích hợp hay không thích hợp? Có hại không? Đúng hay sai? Và chúng ta xem xét tương tự như vậy đối với mọi thứ. Hiểu điều này, chúng ta nghe giáo pháp mọi lúc.

Chúng ta cần hiểu rằng ngay bây giờ chúng ta đang học giữa giáo pháp. Dù chúng ta đi tới hay lùi lại, chúng ta đều gặp giáo pháp - đó là tất cả giáo pháp nếu chúng ta có niệm. Ngay cả khi nhìn thấy những con vật chạy quanh trong khu rừng này, chúng ta có thể suy ngẫm và thấy rằng tất cả những con vật này giống như chúng ta. Chúng chạy trốn khổ đau và đuổi theo hạnh phúc giống như con người. Bất cứ thứ gì chúng không thích thì tránh; chúng sợ hãi cái chết, giống như con người. Nếu chúng ta suy ngẫm về điều này, sẽ thấy rằng tất cả chúng sinh trên thế giới này, con người cũng vậy đều giống nhau ở bản năng. Suy nghĩ như vậy được gọi là “tham thiền”, thấy theo sự thật rằng tất cả chúng sinh là bầu bạn với sinh già bệnh chết. Loài vật cũng giống như con ngườicon người cũng giống như loài vật. Nếu nhìn thấy mọi thứ theo cách như chúng đang là thì tâm của chúng ta sẽ từ bỏ sự quyến luyến vào chúng.

Vì vậy chúng ta phải có niệm. Nếu có niệm chúng ta sẽ thấy trạng thái tâm của mình. Bất cứ điều gì đang nghĩ hoặc cảm giác chúng ta phải biết nó. Sự hiểu biết này được gọi là Bụt, người hiểu biết, người hiểu biết hoàn toàntrọn vẹn. Khi tâm hiểu biết hoàn toàn, chúng ta tìm ra được sự thực tập đúng đắn.

Cho nên con đường chân thật để thực hành là phải có chánh niệm. Nếu bạn không có chánh niệm trong vòng năm phút, bạn đang điên đảo trong năm phút. Hễ khi nào bạn thiếu chánh niệm là bạn điên đảo. Chánh niệmcần thiết. Có chánh niệm là biết chính mình, biết những trạng thái tâm và cuộc sống của mình. Chánh niệm là sự hiểu biếtnhận thức rõ, lắng nghe giáo pháp mọi lúc. Sau khi rời khỏi buổi pháp thoại bạn vẫn còn nghe giáo pháp bởi vì giáo pháp hiện diện mọi nơi.

Vì vậy tất cả các bạn hãy thực tập mỗi ngày. Cho dù lười biếng hay siêng năng, thực hành chỉ cần như vậy. Thực hành giáo pháp là không được làm theo tâm trạng của bạn. Nếu bạn thực hành theo tâm trạng thì nó không phải giáo pháp. Bất kể ngày đêm, dù tâm bạn an tịnh hay không… chỉ cần thực hành.

Giống như đứa trẻ đang học viết. Thoạt đầu, nó viết không đẹp - chữ viết không thẳng hàng - chữ viết của đứa trẻ sẽ được cải thiện thông qua luyện tập. Thực hành giáo pháp cũng giống như vậy. Trước tiên bạn vụng về, thỉnh thoảng được yên tĩnh, đôi lúc lại không, bạn không thực sự biết cái gì là cái gì. Một vài người chán nản. Đừng đi chậm lại! Bạn phải kiên trì với thực hành. Sống với nỗ lực, giống như em học sinh: khi em lớn lên sẽ viết tốt hơn. Từ viết xấu em trưởng thành để viết đẹp hơn, tất cả nhờ sự luyện tập từ thời thơ ấu.

Sự thực hành của chúng ta giống như vậy. Cố gắngchánh niệm mọi lúc: đứng, đi, ngồi hay nằm. Khi thực hiện các nhiệm vụ suôn sẻ và tốt đẹp, chúng ta cảm thấy yên tâm. Khi có sự yên tâm trong công việc chúng ta sẽ dễ có được thiền an tĩnh. Vì vậy, nỗ lực thực hành. Đây là rèn luyện.

Thích Huệ Phát
(Giác Ngộ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2536)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2359)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2215)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2565)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2603)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4103)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2612)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2820)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2721)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant