Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Trì Theo Di Lặc, Thuyết Pháp Theo Duy Ma

01 Tháng Chín 201512:07(Xem: 8193)
Trụ Trì Theo Di Lặc, Thuyết Pháp Theo Duy Ma

Trụ trì theo Di Lặc, thuyết pháp theo Duy Ma

HT Thích Trí Quảng

Tru tri nhu Di Lac

Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.

Các thanh niên dòng Da Xá trông thấy tướng hảo giải thoát của các vị Thánh này, nên đã phát tâm xuất gia. Cha mẹvợ con của các thanh niên Da Xá tìm đến Lộc Uyển thấy hào quang của Đức Phậtđại chúng trang nghiêm cũng phát tâm quy y Tam bảo. Từ đó, Phật giáo có mặt ở Ấn Độtrải qua suốt thời gian dài hơn 2500 năm, Phật giáo đã được truyền bá từ nước này sang nước khác, có lúc thạnh, lúc suy. Tìm hiểu nguyên nhân nào làm Phật pháp hưng thạnh, hay suy đồi, để chúng ta giữ gìn và phát triển được đạo pháp.

Bước đầu, không nghe Phật nói đến trụ trì, nhưng chính yếu là Ngài thường đề cập đến hoằng pháp, theo đó mỗi người đi một hướng, để mang kiến thức và sở đắc tu chứng vào đời làm lợi ích cho chư Thiênloài người. Đó là sách tấn của Phật khi lập giáo khai tông. Nhưng về sau, có tịnh xá, có người cai quản chùa, người ta đặt nặng việc quản lý cơ sở vật chất thì mới nảy sanh sự hiện hữu của trụ trì.

đặc biệt vai trò của trụ trì được khẳng định là trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng; nghĩa là Thầy trụ trì không giữ ngôi chùa vật chất. Phật không dạy chúng xuất gia làm việc ấy, nhưng chính yếu là giữ ngôi chùa tâm linh. Giữ gìn ngôi chùa tâm linh là các Thầy phải ở trong nhà của Đức Như Lai, được kinh Pháp Hoa nói rõ là tâm từ bi.

Các Thầy giữ ngôi chùa vật chất mà rời tâm từ bi của Phật là đã ra khỏi sự an ổn của Phật pháp và rơi vào thế tục, bị hệ lụy bởi vật chất, thì không bao giờ thấy Phật. Mất tâm từ bi, nhưng giữ chùa vật chất, khó tránh khỏi nhiều mối tranh chấp, rất nguy hiểm. Đầu tiên là tranh chấp với thế gian, Thầy trụ trì sẽ mất đạo phong, vì đã rời nhà Như Lai, tức người tu mà cũng buồn phiền, tranh cãi, hơn thua, tranh chấp đất đai, nhà cửa, v.v...

Quan sát kỹ, chúng ta thấy xưa kia, Đức Phật và các bậc Thầy Tổ của chúng ta không bao giờ tranh chấp với ai, nhưng do công đức tu hành, do đạo lực của các Ngài mà chư Thiên và vua chúa hiến cúng. Tất cả các ngôi chùa hiện hữu trên thế giới xét cho cùng, ngôi chùa lớn nhất thường được coi là của chư Thiên cúng dường, kế đến là Hộ quốc nhân vươngtrưởng giả, nói chung là đàn việt hiến cúng, không phải do các Thầy mua đất và vận động xây chùa.

Chủ yếu là các Thầy ở trong nhà Như Lai, ra ngoài, tức đánh mất tâm từ bi, thì ta còn chùa, còn người tu, nhưng thực chất không làm lợi ích cho người; nói cách khác, là không còn Phật pháp.

Vì vậy, Đức Phật thành đạo là Ngài thấy được các pháp theo nhân duyên vận hành trong vũ trụ, thấy mối tương quan tương duyên giữa con người với xã hội. Và thấy đúng như vậy rồi, Ngài khéo vận dụng nhân duyên này mà đi truyền bá chánh pháp. Bước theo dấu chân Phật, tôi khuyên những người xuất gia không nên nghĩ đến mua đất, cất chùa; nhưng phải nghĩ làm sao thấy đạo, đắc đạo, để chúng ta có đạo thì bấy giờ sẽ có chư Thiên, có Hộ pháp, có mọi người đến với chúng ta, là chùa được xây dựng.

Thật vậy, chùa Nam Hoa ở Trung Quốc khi chưa thành hình, đã có một vị phạm Tăng đến nơi đó nói rằng 500 năm sau, sẽ có một vị cao Tăng đến đây biến vùng này thành trung tâm Phật giáo. Theo tôi, vị phạm Tăng này đã thấy ngôi chùa tâm linh khi ẩn tu và Ngài đã bồi dưỡng, un đúc để sau này thành ngôi chùa vật chất. Chùa đã có trong tâm Ngài, vì trong tâm Ngài có Phật, có pháp, nên Ngài đem gieo trồng Phật pháp ở đây là gieo trồng Phật pháp trong tâm quần chúng.

Ý thức như vậy, chúng ta nỗ lực tu hành, thấy đạo, thấy nhân duyên của quần chúng với đạo, nên gieo Phật pháp vào lòng họ. Lòng quần chúngPhật phápkết hợp với sự hỗ trợ Phật pháp của chính quyền, chắc chắn chùa sẽ thành.

Thiên Thai tông, có Ngài Trí Giả đã thể nghiệm điều này một cách sâu sắc. Ngài đến Ngọc Tuyền ngồi trên phiến đá, thấy nơi đó có chùa và Ngài nỗ lực tu để ngôi chùa này hiện hữu, chứ Ngài không xây chùa. Ngài phát huy đạo đức đến độ cao có sức cảm hóa được người và phát huy trí tuệ khiến người kính trọng Ngài là tiểu Thích Ca. Ngài tu ở nơi vắng vẻ, nhưng lực cảm hóa của Ngài đến người tiều phu, cho đến các thôn nữ. Họ đã dâng cúng thức ăn cho Ngài. Và khi có người tìm đến cúng dường, Ngài thuyết pháp là đem Phật pháp để vào lòng các lão tiều phu, các thôn nữ. Những người này trở về khuyến hóa gia đình, bạn bè. Như vậy, người đến nghe Ngài thuyết pháp càng ngày càng đông, cho đến các quan địa phương và những người ở các vùng lân cận cũng đến nghe Ngài giảng dạy. Tùy Dạng Đế nghe tiếng đồn về đạo đứctrí tuệ của Ngài, nên đã đích thân tìm đến đảnh lễ Ngài Trí Giả và xin thọ Bồ tát giới tại gia và đem binh mã đến phá núi xây chùa Ngọc Tuyền. Lịch sử ghi rằng, người dân thấy Ngài tu ở phiến đá ngoài trời lạnh giá, cho nên đã khởi lòng kính trọng và thương quý Ngài, mới lấy khăn choàng che trên đầu của Ngài; về sau này cái khăn choàng đã biến thành chiếc mũ Quan Âm là phát xuất từ đời Tùy, Trung Quốc. Các vị Tổ mà chúng ta thờ trong những ngôi chùa cổ cũng có miếng vải che trên đầu cũng khởi nguồn từ đây.

Từ ngôi chùa tâm linh xây dựng bằng niềm tin của mọi người, tức người kính trọng Ngài và Phật pháp, nên ngôi chùa tâm linh hình thành thì ngôi chùa vật chất được dựng lên bằng cách quần chúng cúng đất, cúng tiền, đóng góp công sức. Vì vậy, chùa vật chất có ra từ chùa tâm linh, Phật pháp có ra nhờ Đức Phật thâm nhập Thiền địnhBồ đề đạo tràng và Ngài tu chứng, thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. Sau đó, Phật pháp nhờ các vị Thánh Tăng phát triển, nhờ các vị cao Tăng tu hành, truyền bá từ Ấn Độ, sang Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, v.v…

Các nhà truyền giáo không mang theo tiền của và vật tư, nhưng đến đâu, các Ngài chủ yếu xây dựng ngôi chùa tâm linh trong lòng người trước, sau đó, chùa vật chất mới được xây dựng, được bảo vệ; cho nên không có tranh chấp. Nhưng ngày nay, có nhiều điều tệ hại. Một số Thầy nói rằng vì đất có giá, nên người ta đã tìm cách lấn chùa, chiếm chùa. Thử nghĩ xem chùa này ai xây, ai lấy. Lúc trước, quần chúng xây, nay quần chúng lấy; lúc trước ông bà tổ tiên cúng, nay con cháu lấy. Ở một mặt nào đó, thấy như vậy; nhưng nhìn xa thì thấy khác. Vì đạo đứctrí tuệ của chúng ta kém, vì nhân duyên hết, nên không giữ được chùa.

Phật pháp thạnh hay suy tùy theo nhân duyên. Ngày xưa, các bậc Thầy Tổ của chúng ta được người kính trọng, cúng dường xây chùa; vì đức độ của các Ngài lớn, vì nhân duyên của các Ngài và dân chúng địa phương có, cho nên họ hết lòng ủng hộ chùa. Nhưng khi ta kế nhiệm làm trụ trì, đức độtrí tuệ kém, khiến người không kính trọng, thấy ta ở đây không hợp lý, họ muốn đẩy đi, mà không được thì bằng mọi cách họ phá rối.

Tu hành phải thấy sâu xa. Nếu ta không đủ tài đức, hay hết duyên hành đạo nơi đây, ta tìm người có tài đức, có duyên đến giáo hóa thay ta. Đừng nghĩ rằng giao chùa lớn cho người khác là uổng; không giao làm cho Phật pháp suy hoại. Đừng để bị vướng mắc vào cơ sở vật chất, không thể tu, không thể phát huy đạo hạnhtâm linh mình.

Chùa Kim Cang này do Tổ sư xây dựng đã trải qua bao lần thạnh suy, cho đến ngày nay Thầy Tắc Ngộ làm trụ trì, tôi thấy chùa này khác hẳn xưa kia rất đơn sơ mộc mạc. Thầy này trụ trì thì những người tranh giành đất đai không khuấy phá và Thầy đã sửa chữa, xây dựng mới chánh điện, nhà Tổ, nay xây thêm giảng đường khang trang. Tại sao người ta lại cúng dường xây dựng chùa này. Trước nhất là đức độ của Thầy trụ trì  có sức cảm hóa. Tôi thấy Phật tử về đây tu Bát quan trai đông, nên niềm tin của họ lớn hợp lại thành ngôi chùa tâm linh lớn. Và mọi người đều có một ý niệm chung là tu hành và muốn xây dựng ngôi chùa trang nghiêm, cho nên ngôi chùa vật chất theo đó mà hiện hữu. Ngôi chùa tâm linh lớn thì ngôi chùa vật chất sẽ lớn. Các vị trụ trì về chùa nhỏ, nhưng quần chúng đến tu đông và hết lòng với Tam bảo thì chùa sẽ sáng đẹp và lớn lần. Trái lại, về trụ trì ngôi chùa lớn, nhưng người tới tu giảm lần và không còn thanh tịnh, mà tranh chấp, cãi vả, thì chùa bắt đầu suy sụp lần theo tâm không tốt của vị trụ trì. Thật vậy, thực tế cho thấy những Tổ đình nổi tiếng một thời mà trở thành hoang phế; vì các vị cao Tăng qua đời, những người kế thừa không có đức hạnhtrí tuệ, mới bị người lấn chiếm đất chùa, cho đến mất chùa.

Vì vậy, chúng ta thấy ngôi chùa vật chất bên ngoài mà biết được tâm linh của trụ trì lớn hay nhỏ. Nếu tâm linh sáng, thì chùa vật chất sáng theo; tâm linh mờ tối thì vật chất cũng mờ theo. Riêng tôi cố gắng xây dựng ngôi chùa tâm linh cho chính mình, tức vững tin nơi Phật pháp, hạ quyết tâm tu cho đạt được kết quả tốt đẹp và đem kết quả này gieo vào lòng quần chúng rộng bao nhiêu thì tâm linh phát triển bấy nhiêu. Kinh Pháp Hoa dạy về thường trụ Tam bảo, nhưng thường trụ Tam bảo này ở trong tâm chúng sinh. Bao giờ chúng sinh còn nghĩ đến Tam bảo thì Tam bảo thường trụ. Chúng sinh không nghĩ đến Tam bảo thì Tam bảo mất. Chúng sinh còn nghĩ đến Phật thì Phật ra đời trong tâm chúng sinh.

Hoằng dương Phật pháp là đem Phật pháp vào lòng chúng sinh, chắc chắn Phật pháp hưng thạnh. Ngày nay, Phật giáo đang phát triển trên đà cao, nhiệm vụ của chúng tacảm hóa quần chúng hướng về Phật, quy ngưỡng Tam bảo, sống theo tinh thần Phật dạy, thì Phật pháp hưng thạnh.

Phật giáo có điều rất đặc biệt, Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời này, Ngài không muốn chúng sinh làm nô lệ cho mình, hay biến chúng sinh thành công cụ của mình. Mục tiêu chính của Phật là giáo hóa chúng sinh để họ có được cuộc sống hạnh phúc an lạc. Vì vậy, mọi người hướng về Phật. Trên bước đường độ sanh, Ngài đi đến nước nào cũng làm lợi ích cho nơi đó, không làm tổn hại bất cứ người nào, loài nào. Chính vì Ngài luôn mang lại sự lợi ích an lạc cho số đông mà các vua chúa vùng ngũ hà thời bấy giờ đều thỉnh Phật về thuyết pháp, để cho quần chúng nghe Phật sẽ sống đạo đức, sống an vui hơn. Vua chúa không dám động đến Phật, họ có thực lòng kính trọng Phật hay không, chúng ta không biết; nhưng chắc chắn họ phải e ngại lực lượng quần chúng hết lòng theo Phật, kính Phật.

Thiết nghĩ ngay cả khi Phật Niết bàn, Ngài cũng làm lợi ích cho nhiều người bằng cách chọn thành Câu Thi Na thuộc một nước nhỏ nhất trong vùng ngũ hà để Niết bàn, vì Ngài thương dân chúng nghèo khổ nơi này. Thật vậy, khi Phật Niết bàn thì các vua chúa và dân chúng trong vùng ngũ hà đã đến đó đảnh lễ kim thân Phật, tham dự lễ trà tỳ và chia Xá lợi Phật. Tất nhiên là việc xây dựng nhà cửa, làm đường xá, nói chung là hạ tầng cơ sở nhờ đó mà được thành hình khang trang để đáp ứng chỗ ăn ở cho vua chúa và tín đồ thời bấy giờ, tạo thành cuộc sống sung túc cho cư dân vùng đó. Và cho đến ngày nay, Câu Thi Na được coi như một trong những Thánh tích của Phật giáo, cũng thu hút nhiều đệ tử Phật khắp thế giới hành hương đến đó. Trên thế gian này, không có một vị Thánh nào được như Phật, đương thời vua chúa kính trọng Phật và khi rời bỏ huyễn thân thì Xá lợi Phật được tôn thờ ở khắp mọi nơi. Tu theo Phật, Tăng Ni nên suy nghĩ đến đâu là phải mang an vui, hạnh phúc cho người. Chỗ tranh chấp, không bao giờ chúng ta đến.

Xây dựng ngôi chùa tâm linh, đặt Phật pháp vào lòng quần chúng, họ kính tín Tam bảo, chắc chắn ngôi chùa vật chất sẽ xuất hiện. Tâm linh nhỏ thì chùa vật chất nhỏ. Tâm linh rộng thì chùa vật chất rộng. Bằng chứng là trước kia giảng đường của chùa Kim Cang này nhỏ, nhưng Phật tử đến tu đông, không đủ chỗ sinh hoạt; cho nên họ đã tự đóng góp  xây dựng thành giảng đường khang trang.

Một Thầy trụ trì mà tâm hẹp, nghĩ rằng chùa của mình, nên gìn giữ cho mình, thì rơi vô tình trạng nhứt Tăng nhứt tự. Tâm trụ trì đóng kín, thì không ai tới. Nếu tâm trụ trì được mở rộng thêm một chút, sẽ có Phật tử đến công quả, có một bà già đến quét lá, một người đến nấu cơm, người đến trồng hoa, lau bàn Phật, v.v…

Các Thầy trụ trì phải có tâm bao dung như Bồ tát Di Lặc, vì Ngài rất dễ thương, ai cũng tới với Ngài được. Thực tế cho thấy những Thầy có tâm bao dung thường có đông đệ tử và họ sẽ trở thành đệ tử xuất gia. Chùa này có tấm lòng bao dung của Thượng tọa Tắc Ngộ, nên chúng tại giaxuất gia đông. Và Thầy Tắc Ngộ bao dung, muốn mở khóa tu học cho Tăng Ni và vì nơi đây đã hiện hữu ngôi chùa tâm linh, nên nhiều Tăng Ni tập trung về đây. Đương nhiên không phải tất cả mọi nơi đều tổ chức được như chùa Kim Cang; nhưng chúng ta cũng làm được chừng mực nào đó. Tuy nhiên, quan trọng là phải có tấm lòng bao dung khiến cho người cảm mến mà tự nguyện đóng góp, xây dựng, bảo vệ chùa, thì Thầy trụ trì không phải cực khổ gì cả, chỉ cần giữ tâm từ bi và tâm bao dung để cảm hóa người.

Đức Phật Thích Ca quyền ký cho Bồ tát Di Lặc thay thế Ngài hóa độ chúng sinh Ta bà, mà chính yếu là thay thế tấm lòng bao dung. Các Thầy trụ trì nên mở lòng bao dung như Di Lặc, mới đem Phật pháp để vào lòng người được và làm lợi ích cho chúng hữu tình.

Trụ trì thì theo mô hình Di Lặc. Thuyết pháp thì phải như Bồ tát Văn Thù, hay như Duy Ma Cật.  Vì Duy Ma không đóng vai Thầy tu, không có hình thức ràng buộc, nên Duy Ma ở đâu cũng được, đem Phật pháp đến đâu cũng được. Đối với công nhân, Duy Ma là công nhân; với người trí thức, Duy Ma là người trí thức, với người kinh doanh, Duy Ma là người kinh doanh. Kinh Duy Ma nói rằng Ngài tới thành Tỳ Da Ly như một người bình thường, nhưng hễ ai có buồn phiền, đau khổ, thắc mắc, khó khăn, thì Duy Ma giải quyết cho họ một cách tốt đẹp. Ngài giải quyết được tất cả mọi việc, nhưng chưa bao giờ Ngài nói Phật pháp; vì Phật pháp Đại thừa là làm lợi ích, an vui cho số đông. Vì vậy, Phật pháp không hạn cuộc vào kinh Di Đà, hay kinh Phổ Môn. Nếu mang hình thức Thầy tu Phật giáo mà truyền bá Phật pháp ở nước theo tôn giáo khác một cách cực đoan, chắc chắn khó bảo toàn được mạng sống, nói chi đến giảng dạy Phật pháp. Còn đến với tư cách Duy Ma, nghĩa là cho lời khuyên nào cũng đúng, làm theo Ngài thì được lợi ích, tất nhiên được chấp nhận.

Và khi mọi người quý trọng Duy Ma rồi, thì Ngài giả bệnh, quả là một phương tiện rất dễ thương của Bồ tát! Những người đã từng được giúp đỡ, mang ơn Ngài, nên nghe nói Ngài bệnh mới đến thăm. Nhân đây, Ngài thuyết pháp. Người nghe xong thì Phật pháp mới hiện, nghĩa là có Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đến thăm bệnh Duy Ma tiêu biểu cho nhập bất nhị pháp môn, hay nhứt thừa, chơn đếtục đế kết hợp là một. Văn Thù Bồ tát tiêu biểu cho chơn đếDuy Ma tiêu biểu cho tục đế. Hai đế này là một.

Duy Ma nói, thì Văn Thù khẳng định rằng Duy Ma nói đúng. Đến phiên Văn Thù nói thì Duy Ma cũng khen là đúng. Chúng ta phải suy nghĩ ý này, làm sao người tu nói mà người thế gian phải nghĩ là đúng, không tranh cãi. Các Thầy cố tranh cãi thế này thế nọ là sai, vì chân lý là một, không phải hai, nhị đế dung thông. Vì vậy, thuyết pháp theo Văn Thù Bồ tát vào cuộc đời không làm chống trái cuộc đời, nên Duy Ma nói ở tục đế, Văn Thùchơn đế cũng cho đó là đúng.

Theo tôi, ai nói cũng đúng, chánh khách nói thì phải như thế. Người buôn bán nói thì phải như thế. Thầy tu nói thì có ngôn ngữ riêng cũng đúng. Ai cũng có suy nghĩ riêng và ngôn ngữ riêng tương ưng với thành phần xã hội của họ; hiểu như vậy, chúng ta chấp nhận tất cả các quan niệm khác nhau một cách dễ dàng và hài hòa trong cuộc sống, không chống đối. Còn nghĩ tôi theo Nam tông, hay theo Khất sĩ, hoặc theo cổ truyền, Bắc tông, v.v… mà chống phá nhau, làm sao Phật pháp tồn tại.

Chúng ta nhìn về cuộc đời, thấy tất cả mọi người đều đúng, xã hội cũng đúng, cái gì tồn tại thì phải đúng; không đúng thì không tồn tại được. Nhân duyên như thế, nên trong kinh Pháp Hoa, Phật nói đó là pháp nhĩ như thị, không thể khác. Ví dụ một người nào đó sống rất hung ác, nhưng họ vẫn tồn tại, vì phước của họ chưa hết, nên quả báo xấu chưa xảy đến với họ. Hoặc người tốt, giỏi, nhưng chưa làm được, vì thời của họ chưa tới. Ta khuyên họ nên chuẩn bị đầy đủ, vì cơ hội chỉ đến cho người có chuẩn bị.

Tất cả mọi việc đều đúng là chân lý, tức Phật pháp phải mang tính hài hòa được với xã hội, với tôn giáo khác; nói chi trong nội bộ Phật giáo chúng ta. Tu trong cùng một chùa, hay cùng một màu áo, cùng một lý tưởng sống theo Phật, nhưng không hài hòa được với nhau, thì dù có trụ trì, có chùa cao Phật lớn, nhưng vẫn cách xa Phật vạn dặm; đó là điều mà tôi muốn nhắc nhở Tăng Ni.

Chính yếu của việc trụ trì là trụ pháp và giữ gìn Như Lai tạng tâm của chúng ta, nghĩa là giữ tâm chúng ta luôn bình ổn, sáng suốt để nhìn cuộc đời một cách đúng đắnhành đạo. Những việc chưa đáng nói mà nói là tự chuốc họa vào thân, ham nói dễ dẫn đến tù đày, chết chóc. Những việc đúng lúc nên làm mà bỏ qua là đánh mất cơ hội tốt.

Tăng Ni phải giữ được Như Lai tạng tâm. Như Lai tạng tâm là gì? Trên bước đường tu, chúng ta cần nhận được yếu chỉ của hai con đường Duyên khởi thì tu hành mới đạt kết quả tốt. Đức Phật tu thành Phật là nhờ phát hiện lý Duyên khởi và Ngài dạy rằng ai thấy lý nhân duyên là thấy Phật pháp và thấy Phật pháp thì trở về Như Lai tạng tâm là trì Như Lai tạng.

Duyên khởi có hai là A lại da duyên khởichơn như duyên khởi. A lại da duyên khởi là khởi theo vô minh vọng thức. Con đường này ta đóng kín, vì nó sẽ dẫn vào sanh tử, chịu hết khổ này đến khổ khác. Trong A lại da của chúng ta chất chứa vô số tội lỗi từ vô thỉ kiếp cho đến hiện đời. Vì vậy, nếu đem nói phải trái thì nói hết đời cũng không hết việc. Một số người vô chùa thường nói rằng: “ Tôi biết hết các Thầy, biết hết các Phật tử”;  nhưng biết đó là vọng thức vì lúc nào họ cũng phiền não.

Phải đóng kín con đường A lại da duyên khởi, để mở con đường Niết bànchơn như duyên khởi. Đóng kín con đường A lại da duyên khởi, hay đóng kín cửa trần thế bằng cách bế quan, tức không nghe, không nhìn, không suy nghĩ. Mở cánh cửa thứ hai là con đường Niết bàn, tức tâm bình ổn và từ tâm an ổn này mà thọ trì, đọc tụng kinh Đại thừa để tìm áo nghĩa của Đại thừa mà sống và lạy Phật để kết duyên. Tụng kinh để hiểu lý kinh, rồi theo lý này vào tận nguồn tâm thanh tịnh nhất là tâm chơn như khởi lên thì thấy Phật, Bồ tát, Thánh Tăng.

Trên bước đường tu, nếu giữ được tâm chơn như, ta nhìn cuộc đời, thấy tất cả người tu là Thánh Tăng, tất cả cư sĩBồ tát, không thấy chúng sinh đáng ghét. Đối với người cho chúng ta chén cơm, quả chuối, ta nghĩ họ là Bồ tát, thì họ sẽ là Bồ tát. Kinh Pháp Hoa gọi ý đó là Thọ Bồ tát ký.

Khi từ Nhật Bản trở về Việt Nam, tâm tôi trong sạch, nên nhìn ai cũng thấy tốt, thấy người xấu cũng tốt, nên họ đem thức ăn cúng dường tôi. Một Thầy ở phòng bên cạnh nói rằng coi chừng bà đó dữ lắm. Nghĩ người xấu thì làm sao họ tốt với mình được. Nếu họ chưa tốt là vì túc nghiệp của mình. Hiểu như vậy, nên nỗ lực tu, lần lần họ cũng trở thành tốt với ta.

Chơn như duyên khởi là trì Như Lai tạng. Từ tâm chơn như khởi thấy tất cả chúng sinh có tánh Phật, sẽ thành Phật trong tương lai. Vì vậy, ta ươm mầm Phật pháp cho họ, nuôi lớn hột giống Bồ đề này, thì lần lần họ có tín tâm với Tam bảo và cũng sẽ trở thành Phật tử tốt, hoặc thành người xuất gia.

Mong rằng các Thầy trụ trì cố gắng đem Phật pháp gieo vào lòng người không gì hơn là giữ gìn tạng tâm Như Laikhởi tâm từ bi, tâm bao dung với mọi người, thì ngôi chùa của chúng ta sẽ bền vững và phát triển, Phật pháp sẽ trường tồn.

HT Thích Trí Quảng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9981)
Hầu như người đời ai cũng có lần giận dữ chỉ là sự thường. Thế nhưng nhà Phật cho giận dữ là một trong những trạng thái tâm lý quan trọng...
(Xem: 12833)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10925)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 10017)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10329)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11232)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9960)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10215)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9652)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10039)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8793)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8536)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10068)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 10025)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9442)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10586)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9130)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10514)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11303)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8513)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12634)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10161)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8456)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9680)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9518)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8134)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9989)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9249)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13373)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9569)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8687)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10347)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8657)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8632)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14221)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10223)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8621)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11508)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11878)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8809)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8143)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9445)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10422)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8767)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8868)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16149)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9976)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11452)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10200)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8362)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant