Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

04 Tháng Mười Hai 201518:26(Xem: 9853)
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

CHUYỂN HÓA NHIỄM TÂM PHIỀN NÃO

 Lama Zopa Rinpoche
Chân Như Việt dịch

 
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não


Phương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa. Chừng nào nghiệp còn chưa được tịnh, quý vị sẽ còn tiếp tục bị độc phiền não giày vò trong các kiếp vị lai.

Có thể một buổi sáng khi thức giấc, quý vị cảm thấy trầm uất mà không có lý do cụ thể. Nếu không giải quyết được vấn đề này bằng thiền định thì một giấc ngủ hoặc đi đâu đó nghỉ ngơi hay lái xe dạo một vòng bên ngoài cũng giúp ích. Nếu không, quý vị sẽ càu nhàu trầm uất và khiến nhiều người quanh mình khó chịu. Khi nổi sân, đủ loại niệm tưởng tiêu cực, khó áp chế tràn ngập tâm quý vị.

Nếu quý vị trầm uất vì rơi vào một tình cảnh nào đó, có thể vận dụng các phương pháp thiền định dành cho các tình huống cụ thể. Nhưng nếu chỉ cảm thấy buồn bã vô cớ thì tốt nhất là nên thực hành phát tâm Bồ đề.

Quý vị có thể tụng bài kệ trong lễ cúng dường Đạo sư (Guru Puja) “Xin hãy gia trì cho con để con nhận chân căn bệnh vị kỷ ái ngã là cánh cửa dẫn đến những khổ đau không mong muốn.” Hãy trách cứ những tư tưởng ma chướng vị kỷ gây ra trầm uất cho quý vị. Rồi tụng tiếp vần thơ kế: “Xin hãy gia trì cho con để con nhận biết rằng kính quý người khác, phát tâm Bồ đề, tâm dẫn dắt hết thảy chúng sinh mẹ đến bến bờ hỷ lạc là cánh cửa dẫn vào những phẩm tính thiện căn toàn hảo.”

Một trích dẫn khác trong lễ cúng dường Đạo sư là: “Ngay cả khi tất cả chúng sinh tệ bạc với con, con xin nguyện yêu thương họ hơn cả cuộc sống của mình.” Nếu quý vị có thể đọc những bài tụng này hàng ngày thì hết sức lợi lạc, đặc biệt vào những lúc quý vị cảm thấy trầm uất. Như thế, quý vị sẽ dùng chính phiền não buồn khổ của mình để thực hành ý nghĩa của hai đoạn kệ này; rằng tất cả mọi trục trặckhổ não đều từ tâm vị kỷ ái ngã mà ra, cho nên “cái tôi” phải là đối tượng bị bác bỏ, phải bị khước từ. Tất cả nguồn hỷ lạc của quý vị và của tha nhân, bao gồm mọi chứng đắc cho đến khi giác ngộ viên mãn - mọi hạnh toàn hảo và phúc lạc đều đến từ tâm thương yêu ái trọng tha nhân, gọi là tâm Bồ đề.

Vì rằng tất cả những điều thánh thiện đều do tâm ái trọng tha nhân mà sinh ra, chúng nương dựa vào chúng sinh. Do vậy, chúng sinh hữu tình phải luôn được mãi yêu thương ái trọng. Quý vị phải đền đáp lại lòng nhân từ của chúng sinh quý giá này, giúp họ bằng bất cứ cách gì có thể. Làm sao để thực hiện được điều này đây? Có hàng triệu vô số lần họ đã sinh trong thân làm vua chúa nhưng chẳng có quyền lực hay sự giàu sang nào có thể giải thoát họ khỏi khổ đau của sinh tử. Cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của họ là hãy thực hành pháp Lamrim để chuyển hóa tâm thức vô minh, bám luyến, vị kỷ thành một tâm lành mạnh thuần khiết. Bằng cách tu tập đạo lộ đến giác ngộ, quý vị sẽ dễ dàng giải thoát những chúng sinh khác. Do vậy, phương cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của chúng sinhthiền định và trau dồi tâm Bồ đề.

Nhận.

Mọi chúng sinh đều là cội nguồn của toàn thể quá khứ, hiện tại và tương lai của quý vị. Hãy phát khởi tâm bi mẫn bằng cách suy niệm thế này: “Tôi sẽ nhận về tim mình tất cả khổ và nguyên nhân tạo khổ (những phiền nãocác chủng tử nghiệp bất thiện) bao hàm cả lửa thiêu trong các địa ngục nóng, đá buốt trong những tầng địa ngục băng giá và tất cả những hoàn cảnh bức bách khó chịu, xấu xa, loạn lạc nhiễm ô của con người.” Suy nghĩ này sẽ triệt tiêu thái độ vị kỷ ái ngã. Một khi tâm vị kỷ ái ngã bị tiêu diệt, quý vị nên có một thời thiền ngắn về tánh không.

Cho
Sau khi tâm vị kỷ ái ngã bị diệt trừ, hãy lan tỏa yêu thương bằng cách cho đi nguồn hạnh phúc riêng của quý vị, công đức của quý vị và tất cả những thứ tốt đẹp mà quý vị có được gồm cả thân thể, sự giàu sang và các tài sản sở hữu. Tất cả mọi mong nguyện của chúng sinh đều được hoàn mãn như thể họ sở hữu viên bảo châu như ý. Khi trao tặng cho họ những điều này, quý vị đã khởi tạo công đức vô lượng. Quý vị có thể tụng chú trong lúc họ thọ nhận mọi thứ mà họ cần và mong có. Thực ra, họ không nhận biết cái họ thực sự cần là gì đâu. Cái điều mà họ cần là gặp được chánh Pháp. Nhưng nếu không hiểu được lợi lạc của chánh pháp, họ sẽ sở cầu những thứ không phải là chánh pháp.

Thọ nhận những điều tốt đẹp như thế giúp họ hiện thực hóa con đường tâm linh, thanh tịnh hai chướng (để thành tựu giải thoátgiác ngộ). Họ thành tựu sắc thân của đức Phậtchứng đắc giác ngộ. Hãy nghĩ như vầy: Những điều mình làm vì chúng sinh mới thù thắng làm sao! Mình đã bao phen vào ra sinh tử trong các tiền kiếp khi làm việc chỉ vì lợi lạc của riêng mình và chẳng chứng ngộ được bất cứ điều gì. Mình vẫn lang thang trong luân hồi. Mình chưa bao giờ xả thân khi phụng sự các chúng sinh khác. Ngay cả nếu phải xả thân vì lợi ích của tha nhân, giúp họ chấm dứt tạo nghiệp bất thiện để không tái sinh vào các ác đạo và vì tâm thức của họ chuyển hóa thành pháp thânsắc thân của chư Phật rồi chứng đắc giác ngộ, thì đây cũng là điều vô cùng lợi lạc đáng làm.

Thiền quán về lòng từ mẫn bao la và sự quý giá của hết thảy chúng hữu tình. “Mọi chúng sinh mẹ đều là cội nguồn hỷ lạc quá khứ, hiện tạivị lai của con. Chư Phật, Pháp và Chúng chung tôn đời vị lai thị hiện tịnh hóa các ác nghiệp bất tịnh của con nhằm giúp con thành tựu mọi chứng đắcquả vị giác ngộ. Tất cả những điều này diễn ra trên cơ sở của những chúng sinh khác. Vì vậy, mọi chúng hữu tình là điều quý giá nhất đời con. Bất kỳ điều gì thực hiện không vì phụng sự cho chúng sinh đều hoàn toàn vô nghĩa.” Điều này bao hàm cả chịu đựng trầm uất phiền não thay cho họ. Không có gì sánh bằng làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Những điều khác đều vô nghĩa cả. Chịu thay phiền não khổ đau cho họ bằng cách suy nghĩ rằng đây không phải là phiền não của bản thân tôi nhưng là phiền não của vô lượng chúng sinh, đây là phiền não của họ, khổ đau của họ. Thật thù thắng khi trao cho họ phúc lạc của giải thoát khổ đau trong sinh tửân sủng hỷ lạc của  quả vị giác ngộ viên mãn!

Hãy cảm nhận niềm hỷ lạc từ đó! Đây là phiền não của chúng sinh, vì thế điều thù thắng nhất là chịu đựng phiền não thay họ và giúp những ai đang khổ đau vì nhiễm tâm phiền não được tận hưởng hạnh phúc. Hãy hoan hỉ vì quý vị đã thọ nhận cơ hội trải nghiệm khổ đau vì kẻ khác. “Thật tuyệt diệu biết bao khi con chịu đựng khổ não thay cho hết thảy chúng hữu tình!”


Hãy thực hành pháp Tong-len (cho và nhận) vào giấc sáng, chiều và tối.

Suy đi ngẫm lại: “Con thật sự may mắn biết bao khi có thể chịu đựng đau khổ thay cho người. Con đã nguyện cầu để nhận tất cả khổ não của chúng sinh về mình và những cầu nguyện đó sẽ trở thành hiện thực. Thật kỳ diệu thay! Nó làm đời sống của con thật giàu có và tràn đầy ý nghĩa. Thật cát tường biết bao khi con chịu thay đau khổ này cho hết thảy chúng hữu tình.”

Hãy nghĩ về ý nghĩa đời mình, một phương pháp tâm lý có thể tạo sự khác biệt đáng kể bởi vì phần lớn đau khổ là do khái niệm về đau đớn bị khuếch đại của bạn. Hoàn toàn có thể giảm thiểu hoặc thậm chí loại trừ hoàn toàn phiền não đau đớn bằng tâm thức. “Mục đích đời con không chỉ là để mạnh khỏe, giàu sang, có thanh danh sự nghiệp, nhiều bạn bè bằng hữu. Kể cả khi con sở hữu tất cả những thứ này, đó cũng không phải là cùng đích của đời con. Ngay cả nếu con có thọ mạng một ngàn năm tuổi hoặc sung mãn khỏe mạnh trong ngàn đại kiếp, nếu trong con không có yêu thương và bi mẫn thì cuộc đời thật vô nghĩavô dụng, vì rằng con chẳng thể mang lại ích lợi gì cho ai cả. Sống như thế thật trống rỗng. Vì vậy, bất chấp chuyện gì xảy ra trong đời cũng chẳng là gì hết, con có hay không có sức khỏe, phiền não hay không phiền não, mắc hay không mắc bệnh ung thư, giàu có hay nghèo túng. Mục đích thực của cuộc đời con là làm cho cái chết của con cũng lợi lạc kẻ khác. Ngay cả nếu mắc bệnh ung thư, con cũng sẽ làm cho kinh nghiệm bệnh tật ấy hữu ích cho chúng hữu tình bằng cách dùng bệnh tật để trau dồi lòng bi mẫn và tâm Bồ đề, để thành tựu chứng đắcgiác ngộ viên mãn.”

Như thế, căn bệnh ung thư sẽ trở thành nhân của phúc lạc. Phiền não đau khổ cũng có thể được sử dụng để thành tựu giác ngộ vì lợi ích tất cả chúng sinh trong đời này và đời này những kiếp sau, đăc biệt tất cả những ai chịu khổ đau vì trầm uất phiền não – cũng giống như dùng nọc độc của rắn để bào chế ra vị thuốc trị nọc độc rắn vậy.

Quý vị sử dụng phiền não để chứng đạt giác ngộ. Theo cách này, phiền não sẽ trở thành nhân của hạnh phúc cho hết thảy chúng hữu tình đang gánh chịu phiền não khổ đau.  Hãy nghĩ thế này: “Cùng đích của cuộc đờivì lợi ích của chúng sinh, để giải thoát họ khỏi khổ đau và mang đến phúc lạc đời này và những đời sau. Ngay cả nếu con có mắc bệnh ung thư, nhiễm AIDS, bị phiền não giày vò v.v…, mục đích của đời con là mang phúc lạc đến cho tất cả chúng hữu tình bằng cách chịu thay họ những khổ não buồn đau.” Bằng cách này, cái trầm uất đau khổ lại trở thành con đường nhanh dẫn đến giác ngộ. Tương tự đối với căn bệnh ung thư, hãy dùng nó để nhanh chóng thành tựu giác ngộ. Nếu chịu đựng thay cho chúng sinh khác vì lợi ích của họ thì đây sẽ trở thành con đường giác ngộ nhanh chóng, vì chịu khổ đau thay cho chúng sinh khác là sự tịnh hóa hết sức vi diệu thù thắng. Cực kỳ tuyệt hảo!

Có một vị tăng ở Thái Lan đi kinh hành xuyên đất nước này. Khi ông tới một con sông lớn, bên bờ sông có một người phụ nữ bị bệnh hủi và máu mủ rỉ ra từ những vết thương của bà. Bà xin vị tăng cõng qua con sông nhưng ông từ chối giải thích rằng ông không thể phạm giới mà đụng vào thân thể phụ nữ. Sau đó một thời gian, một trong những đệ tử của vị tăng này cũng đi kinh hành qua đây và khi nhìn thấy người đàn bà tội nghiệp ấy, lòng từ mẫn bao la dâng tràn trong tâm ông. Không nề hà, ông đã bế người phụ nữ lên và cõng bà qua sông dù thân thể bà có nhiều vết thương còn đang lở loét. Khi đến giữa dòng sông, người phụ nữ thị hiện thành một Yogini Kim Cương trì và chuyển cả thân và tâm của vị tăng này về cõi tịnh độ của Yogini Kim Cương trì. Có nghĩa là từ đây, vị tăng này đã chứng quả vị giác ngộ viên mãn, vì bất kỳ ai đặt chân đến cõi tịnh của Yogini Kim Cương trì thì đều chứng đắc giác ngộ tại đó.  Sinh vào một cõi tịnh độ là cách nhanh nhất để thành tựu giác ngộ nếu điều đó chưa xảy ra trong kiếp hiện tiền của chúng ta. Trong trường hợp này Yogini Kim cương trì đã thị hiện trong thân một người đàn bà phàm thường tội nghiệp mắc bệnh hủi để đánh thức tâm đại bi của người đệ tử. Tâm đại bi này nhanh chóng tịnh hóa toàn bộ ác nghiệp nặng nề đã che chướng ông không nhìn thấy vị Yogini Kim Cương trì.

Trong trường hợp của vị đại hành giả Tây Tạng, ngài Milarepa, những khối nghiệp quả ngăn trở ngài nhìn thấy Yogini Kim Cương trì đã được tịnh hóa nhờ tinh thần sự phụng sự thuần khiết của ngài đối với vị Thầy thánh tăng Marpa.

Cũng tương tự cho quý vị. Nếu trên cơ sở kinh nghiệm được một tâm đại bi mạnh mẽ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sự thiền định chịu đựng đau khổ thay cho tha nhân sẽ là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộ, cũng giống như tấm gương của vị tăng kia. Đó là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộkinh nghiệm căn bệnh ung thư, trầm uất khổ não hay bất kỳ một đau khổ nào vì lợi ích hữu tình đều có tác dụng thanh tịnh hóa ngoài sức tưởng tượng.

Đau khổphiền não có thể lợi lạc vì nó cho phép quý vị dễ dàng nhìn thấy nỗi đau của kẻ khác. Dùng kinh nghiệm về đau khổ riêng của bản thân, quý vị có thể cảm nhận một cách rõ ràng những đau đớn không sao chịu thấu của vô số hằng hà chúng sinh khác. Có rất nhiều người bị phiền não giày vò và nhiều người khác đang tạo ác nghiệp sẽ phải hứng chịu trong những kiếp vị lai. Hứng chịu phiền não đau khổ thay cho họ có lẽ còn mãnh liệt hơn là thực hành pháp mật tông vì nếu hành mật tông không đúng cách, dựa trên cơ sở của căn bản ba đạo lộ, thì đó sẽ không phải là con đường nhanh dẫn đến giác ngộ.

Khi cảm thấy phiền não tiêu cực quý vị có thể tự nhủ thế này: “Mình đã tiêu trừ rất nhiều ác nghiệp phiền não tích lũy qua vô lượng kiếp trong quá khứ.” Hãy hoan hỉ! Quý vị phải cảm thấy suối nguồn hỷ lạc vô biên khi được trả nghiệp thay vì xem phiền não như điều gì đó không hay không tốt.

Như có đề cập trong lễ cúng dường Đạo sư, chúng hữu tình và hoàn cảnh sống của họ chồng chất phiền não, ác nạn không sao tưởng tượng nổi, chúng nối đuôi nhau hết cái này đến cái khác như mưa sa,  khổ nãohậu quả của các bất thiện nghiệp. “Xin hãy cho con nguồn ân sủng để con nhận ra khổ đau phiền não của con như là cách tiêu trừ các chủng tử nghiệp bất thiện, và gia trì cho con luôn có năng lực chuyển hóa nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.” Quý vị có thể tụng đọc chú này trong khi thiền định.

Ví dụ, khi quý vị giặt một miếng vải dơ bẩn, nước đen chảy ra với bụi đất. Quý vị đâu có xem đất bẩn đấy là thứ xấu vì điều đó có nghĩa là mảnh vải của quý vị giặt sẽ thành sạch sẽ. Cũng như thế, khi quý vị thực hành pháp thì các nghiệp tiêu cực có thể trổ chín làm cho quý vị mắc bệnh, do quý vị đã thanh tẩy rất nhiều bất thiện nghiệp qua thực hành pháp. Vì thế, quý vị phải vui mừng hoan hỉ khi mình u buồn trầm uất!

Phiền não khổ đau hiện diện trước tiên là do chúng ta bị chi phối bởi ngã, bởi tâm vị kỷ ái trọng tự thân, bởi bám luyến, sân hận, phá phạm giới tu và các hành vi làm buồn lòng các bậc đạo sư linh thiêng, những vị thầy tâm linh trong các kiếp quá khứ. Phiền não đau khổ này gây ra bởi ngã, bởi tâm vị kỷ chấp thật. Vậy, thay vì chấp nhận cái trầm uất đó  thì hãy trả nó về với cái tâm vị kỷ ái ngã. Dùng phiền não như trái bom để công phá những niệm tưởng lầm lạc về bản ngã. Sau đó hãy thiền quán về tính không của bản ngã hiện hữu độc lập.

Đây là một số phương cách sự dụng tâm phiền não trầm uất để thành tựu giác ngộ nhanh chóng. Sử dụng nó để trau dồi lòng từ ái và tâm Bồ đề, quý vị có thể tích lũy công đức vô lượng bao la như hư khôngthanh tịnh một lượng ác nghiệp không thể tưởng tưởng được. Nó được sử dụng như trái bom mạnh mẽ công phá suy niệm lầm lạc về sự cái ngã hiện hữutự tính, cái đã gây ra đau buồn phiền não cho chúng ta. Nó chính là ma chướng cản lối giác ngộ và ngáng trở sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, là cánh cửa dẫn đến mọi khổ đau.

Quý vị cũng cò thể thực hành một số pháp tu sơ khởi như tụng minh chú Kim Cang Tát Đỏa để thanh tịnh nghiệp chướng gây ra phiền não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2628)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2515)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2632)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2415)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3221)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2513)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2521)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2176)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2564)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3032)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2631)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2681)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2950)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2524)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4056)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2759)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3030)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2276)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2490)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2784)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2853)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2612)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3176)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2369)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2467)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2668)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2721)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2544)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2119)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2574)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2802)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2913)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2493)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2759)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2337)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant