Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

04 Tháng Mười Hai 201518:26(Xem: 9675)
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

CHUYỂN HÓA NHIỄM TÂM PHIỀN NÃO

 Lama Zopa Rinpoche
Chân Như Việt dịch

 
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não


Phương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa. Chừng nào nghiệp còn chưa được tịnh, quý vị sẽ còn tiếp tục bị độc phiền não giày vò trong các kiếp vị lai.

Có thể một buổi sáng khi thức giấc, quý vị cảm thấy trầm uất mà không có lý do cụ thể. Nếu không giải quyết được vấn đề này bằng thiền định thì một giấc ngủ hoặc đi đâu đó nghỉ ngơi hay lái xe dạo một vòng bên ngoài cũng giúp ích. Nếu không, quý vị sẽ càu nhàu trầm uất và khiến nhiều người quanh mình khó chịu. Khi nổi sân, đủ loại niệm tưởng tiêu cực, khó áp chế tràn ngập tâm quý vị.

Nếu quý vị trầm uất vì rơi vào một tình cảnh nào đó, có thể vận dụng các phương pháp thiền định dành cho các tình huống cụ thể. Nhưng nếu chỉ cảm thấy buồn bã vô cớ thì tốt nhất là nên thực hành phát tâm Bồ đề.

Quý vị có thể tụng bài kệ trong lễ cúng dường Đạo sư (Guru Puja) “Xin hãy gia trì cho con để con nhận chân căn bệnh vị kỷ ái ngã là cánh cửa dẫn đến những khổ đau không mong muốn.” Hãy trách cứ những tư tưởng ma chướng vị kỷ gây ra trầm uất cho quý vị. Rồi tụng tiếp vần thơ kế: “Xin hãy gia trì cho con để con nhận biết rằng kính quý người khác, phát tâm Bồ đề, tâm dẫn dắt hết thảy chúng sinh mẹ đến bến bờ hỷ lạc là cánh cửa dẫn vào những phẩm tính thiện căn toàn hảo.”

Một trích dẫn khác trong lễ cúng dường Đạo sư là: “Ngay cả khi tất cả chúng sinh tệ bạc với con, con xin nguyện yêu thương họ hơn cả cuộc sống của mình.” Nếu quý vị có thể đọc những bài tụng này hàng ngày thì hết sức lợi lạc, đặc biệt vào những lúc quý vị cảm thấy trầm uất. Như thế, quý vị sẽ dùng chính phiền não buồn khổ của mình để thực hành ý nghĩa của hai đoạn kệ này; rằng tất cả mọi trục trặckhổ não đều từ tâm vị kỷ ái ngã mà ra, cho nên “cái tôi” phải là đối tượng bị bác bỏ, phải bị khước từ. Tất cả nguồn hỷ lạc của quý vị và của tha nhân, bao gồm mọi chứng đắc cho đến khi giác ngộ viên mãn - mọi hạnh toàn hảo và phúc lạc đều đến từ tâm thương yêu ái trọng tha nhân, gọi là tâm Bồ đề.

Vì rằng tất cả những điều thánh thiện đều do tâm ái trọng tha nhân mà sinh ra, chúng nương dựa vào chúng sinh. Do vậy, chúng sinh hữu tình phải luôn được mãi yêu thương ái trọng. Quý vị phải đền đáp lại lòng nhân từ của chúng sinh quý giá này, giúp họ bằng bất cứ cách gì có thể. Làm sao để thực hiện được điều này đây? Có hàng triệu vô số lần họ đã sinh trong thân làm vua chúa nhưng chẳng có quyền lực hay sự giàu sang nào có thể giải thoát họ khỏi khổ đau của sinh tử. Cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của họ là hãy thực hành pháp Lamrim để chuyển hóa tâm thức vô minh, bám luyến, vị kỷ thành một tâm lành mạnh thuần khiết. Bằng cách tu tập đạo lộ đến giác ngộ, quý vị sẽ dễ dàng giải thoát những chúng sinh khác. Do vậy, phương cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của chúng sinhthiền định và trau dồi tâm Bồ đề.

Nhận.

Mọi chúng sinh đều là cội nguồn của toàn thể quá khứ, hiện tại và tương lai của quý vị. Hãy phát khởi tâm bi mẫn bằng cách suy niệm thế này: “Tôi sẽ nhận về tim mình tất cả khổ và nguyên nhân tạo khổ (những phiền nãocác chủng tử nghiệp bất thiện) bao hàm cả lửa thiêu trong các địa ngục nóng, đá buốt trong những tầng địa ngục băng giá và tất cả những hoàn cảnh bức bách khó chịu, xấu xa, loạn lạc nhiễm ô của con người.” Suy nghĩ này sẽ triệt tiêu thái độ vị kỷ ái ngã. Một khi tâm vị kỷ ái ngã bị tiêu diệt, quý vị nên có một thời thiền ngắn về tánh không.

Cho
Sau khi tâm vị kỷ ái ngã bị diệt trừ, hãy lan tỏa yêu thương bằng cách cho đi nguồn hạnh phúc riêng của quý vị, công đức của quý vị và tất cả những thứ tốt đẹp mà quý vị có được gồm cả thân thể, sự giàu sang và các tài sản sở hữu. Tất cả mọi mong nguyện của chúng sinh đều được hoàn mãn như thể họ sở hữu viên bảo châu như ý. Khi trao tặng cho họ những điều này, quý vị đã khởi tạo công đức vô lượng. Quý vị có thể tụng chú trong lúc họ thọ nhận mọi thứ mà họ cần và mong có. Thực ra, họ không nhận biết cái họ thực sự cần là gì đâu. Cái điều mà họ cần là gặp được chánh Pháp. Nhưng nếu không hiểu được lợi lạc của chánh pháp, họ sẽ sở cầu những thứ không phải là chánh pháp.

Thọ nhận những điều tốt đẹp như thế giúp họ hiện thực hóa con đường tâm linh, thanh tịnh hai chướng (để thành tựu giải thoátgiác ngộ). Họ thành tựu sắc thân của đức Phậtchứng đắc giác ngộ. Hãy nghĩ như vầy: Những điều mình làm vì chúng sinh mới thù thắng làm sao! Mình đã bao phen vào ra sinh tử trong các tiền kiếp khi làm việc chỉ vì lợi lạc của riêng mình và chẳng chứng ngộ được bất cứ điều gì. Mình vẫn lang thang trong luân hồi. Mình chưa bao giờ xả thân khi phụng sự các chúng sinh khác. Ngay cả nếu phải xả thân vì lợi ích của tha nhân, giúp họ chấm dứt tạo nghiệp bất thiện để không tái sinh vào các ác đạo và vì tâm thức của họ chuyển hóa thành pháp thânsắc thân của chư Phật rồi chứng đắc giác ngộ, thì đây cũng là điều vô cùng lợi lạc đáng làm.

Thiền quán về lòng từ mẫn bao la và sự quý giá của hết thảy chúng hữu tình. “Mọi chúng sinh mẹ đều là cội nguồn hỷ lạc quá khứ, hiện tạivị lai của con. Chư Phật, Pháp và Chúng chung tôn đời vị lai thị hiện tịnh hóa các ác nghiệp bất tịnh của con nhằm giúp con thành tựu mọi chứng đắcquả vị giác ngộ. Tất cả những điều này diễn ra trên cơ sở của những chúng sinh khác. Vì vậy, mọi chúng hữu tình là điều quý giá nhất đời con. Bất kỳ điều gì thực hiện không vì phụng sự cho chúng sinh đều hoàn toàn vô nghĩa.” Điều này bao hàm cả chịu đựng trầm uất phiền não thay cho họ. Không có gì sánh bằng làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Những điều khác đều vô nghĩa cả. Chịu thay phiền não khổ đau cho họ bằng cách suy nghĩ rằng đây không phải là phiền não của bản thân tôi nhưng là phiền não của vô lượng chúng sinh, đây là phiền não của họ, khổ đau của họ. Thật thù thắng khi trao cho họ phúc lạc của giải thoát khổ đau trong sinh tửân sủng hỷ lạc của  quả vị giác ngộ viên mãn!

Hãy cảm nhận niềm hỷ lạc từ đó! Đây là phiền não của chúng sinh, vì thế điều thù thắng nhất là chịu đựng phiền não thay họ và giúp những ai đang khổ đau vì nhiễm tâm phiền não được tận hưởng hạnh phúc. Hãy hoan hỉ vì quý vị đã thọ nhận cơ hội trải nghiệm khổ đau vì kẻ khác. “Thật tuyệt diệu biết bao khi con chịu đựng khổ não thay cho hết thảy chúng hữu tình!”


Hãy thực hành pháp Tong-len (cho và nhận) vào giấc sáng, chiều và tối.

Suy đi ngẫm lại: “Con thật sự may mắn biết bao khi có thể chịu đựng đau khổ thay cho người. Con đã nguyện cầu để nhận tất cả khổ não của chúng sinh về mình và những cầu nguyện đó sẽ trở thành hiện thực. Thật kỳ diệu thay! Nó làm đời sống của con thật giàu có và tràn đầy ý nghĩa. Thật cát tường biết bao khi con chịu thay đau khổ này cho hết thảy chúng hữu tình.”

Hãy nghĩ về ý nghĩa đời mình, một phương pháp tâm lý có thể tạo sự khác biệt đáng kể bởi vì phần lớn đau khổ là do khái niệm về đau đớn bị khuếch đại của bạn. Hoàn toàn có thể giảm thiểu hoặc thậm chí loại trừ hoàn toàn phiền não đau đớn bằng tâm thức. “Mục đích đời con không chỉ là để mạnh khỏe, giàu sang, có thanh danh sự nghiệp, nhiều bạn bè bằng hữu. Kể cả khi con sở hữu tất cả những thứ này, đó cũng không phải là cùng đích của đời con. Ngay cả nếu con có thọ mạng một ngàn năm tuổi hoặc sung mãn khỏe mạnh trong ngàn đại kiếp, nếu trong con không có yêu thương và bi mẫn thì cuộc đời thật vô nghĩavô dụng, vì rằng con chẳng thể mang lại ích lợi gì cho ai cả. Sống như thế thật trống rỗng. Vì vậy, bất chấp chuyện gì xảy ra trong đời cũng chẳng là gì hết, con có hay không có sức khỏe, phiền não hay không phiền não, mắc hay không mắc bệnh ung thư, giàu có hay nghèo túng. Mục đích thực của cuộc đời con là làm cho cái chết của con cũng lợi lạc kẻ khác. Ngay cả nếu mắc bệnh ung thư, con cũng sẽ làm cho kinh nghiệm bệnh tật ấy hữu ích cho chúng hữu tình bằng cách dùng bệnh tật để trau dồi lòng bi mẫn và tâm Bồ đề, để thành tựu chứng đắcgiác ngộ viên mãn.”

Như thế, căn bệnh ung thư sẽ trở thành nhân của phúc lạc. Phiền não đau khổ cũng có thể được sử dụng để thành tựu giác ngộ vì lợi ích tất cả chúng sinh trong đời này và đời này những kiếp sau, đăc biệt tất cả những ai chịu khổ đau vì trầm uất phiền não – cũng giống như dùng nọc độc của rắn để bào chế ra vị thuốc trị nọc độc rắn vậy.

Quý vị sử dụng phiền não để chứng đạt giác ngộ. Theo cách này, phiền não sẽ trở thành nhân của hạnh phúc cho hết thảy chúng hữu tình đang gánh chịu phiền não khổ đau.  Hãy nghĩ thế này: “Cùng đích của cuộc đờivì lợi ích của chúng sinh, để giải thoát họ khỏi khổ đau và mang đến phúc lạc đời này và những đời sau. Ngay cả nếu con có mắc bệnh ung thư, nhiễm AIDS, bị phiền não giày vò v.v…, mục đích của đời con là mang phúc lạc đến cho tất cả chúng hữu tình bằng cách chịu thay họ những khổ não buồn đau.” Bằng cách này, cái trầm uất đau khổ lại trở thành con đường nhanh dẫn đến giác ngộ. Tương tự đối với căn bệnh ung thư, hãy dùng nó để nhanh chóng thành tựu giác ngộ. Nếu chịu đựng thay cho chúng sinh khác vì lợi ích của họ thì đây sẽ trở thành con đường giác ngộ nhanh chóng, vì chịu khổ đau thay cho chúng sinh khác là sự tịnh hóa hết sức vi diệu thù thắng. Cực kỳ tuyệt hảo!

Có một vị tăng ở Thái Lan đi kinh hành xuyên đất nước này. Khi ông tới một con sông lớn, bên bờ sông có một người phụ nữ bị bệnh hủi và máu mủ rỉ ra từ những vết thương của bà. Bà xin vị tăng cõng qua con sông nhưng ông từ chối giải thích rằng ông không thể phạm giới mà đụng vào thân thể phụ nữ. Sau đó một thời gian, một trong những đệ tử của vị tăng này cũng đi kinh hành qua đây và khi nhìn thấy người đàn bà tội nghiệp ấy, lòng từ mẫn bao la dâng tràn trong tâm ông. Không nề hà, ông đã bế người phụ nữ lên và cõng bà qua sông dù thân thể bà có nhiều vết thương còn đang lở loét. Khi đến giữa dòng sông, người phụ nữ thị hiện thành một Yogini Kim Cương trì và chuyển cả thân và tâm của vị tăng này về cõi tịnh độ của Yogini Kim Cương trì. Có nghĩa là từ đây, vị tăng này đã chứng quả vị giác ngộ viên mãn, vì bất kỳ ai đặt chân đến cõi tịnh của Yogini Kim Cương trì thì đều chứng đắc giác ngộ tại đó.  Sinh vào một cõi tịnh độ là cách nhanh nhất để thành tựu giác ngộ nếu điều đó chưa xảy ra trong kiếp hiện tiền của chúng ta. Trong trường hợp này Yogini Kim cương trì đã thị hiện trong thân một người đàn bà phàm thường tội nghiệp mắc bệnh hủi để đánh thức tâm đại bi của người đệ tử. Tâm đại bi này nhanh chóng tịnh hóa toàn bộ ác nghiệp nặng nề đã che chướng ông không nhìn thấy vị Yogini Kim Cương trì.

Trong trường hợp của vị đại hành giả Tây Tạng, ngài Milarepa, những khối nghiệp quả ngăn trở ngài nhìn thấy Yogini Kim Cương trì đã được tịnh hóa nhờ tinh thần sự phụng sự thuần khiết của ngài đối với vị Thầy thánh tăng Marpa.

Cũng tương tự cho quý vị. Nếu trên cơ sở kinh nghiệm được một tâm đại bi mạnh mẽ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sự thiền định chịu đựng đau khổ thay cho tha nhân sẽ là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộ, cũng giống như tấm gương của vị tăng kia. Đó là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộkinh nghiệm căn bệnh ung thư, trầm uất khổ não hay bất kỳ một đau khổ nào vì lợi ích hữu tình đều có tác dụng thanh tịnh hóa ngoài sức tưởng tượng.

Đau khổphiền não có thể lợi lạc vì nó cho phép quý vị dễ dàng nhìn thấy nỗi đau của kẻ khác. Dùng kinh nghiệm về đau khổ riêng của bản thân, quý vị có thể cảm nhận một cách rõ ràng những đau đớn không sao chịu thấu của vô số hằng hà chúng sinh khác. Có rất nhiều người bị phiền não giày vò và nhiều người khác đang tạo ác nghiệp sẽ phải hứng chịu trong những kiếp vị lai. Hứng chịu phiền não đau khổ thay cho họ có lẽ còn mãnh liệt hơn là thực hành pháp mật tông vì nếu hành mật tông không đúng cách, dựa trên cơ sở của căn bản ba đạo lộ, thì đó sẽ không phải là con đường nhanh dẫn đến giác ngộ.

Khi cảm thấy phiền não tiêu cực quý vị có thể tự nhủ thế này: “Mình đã tiêu trừ rất nhiều ác nghiệp phiền não tích lũy qua vô lượng kiếp trong quá khứ.” Hãy hoan hỉ! Quý vị phải cảm thấy suối nguồn hỷ lạc vô biên khi được trả nghiệp thay vì xem phiền não như điều gì đó không hay không tốt.

Như có đề cập trong lễ cúng dường Đạo sư, chúng hữu tình và hoàn cảnh sống của họ chồng chất phiền não, ác nạn không sao tưởng tượng nổi, chúng nối đuôi nhau hết cái này đến cái khác như mưa sa,  khổ nãohậu quả của các bất thiện nghiệp. “Xin hãy cho con nguồn ân sủng để con nhận ra khổ đau phiền não của con như là cách tiêu trừ các chủng tử nghiệp bất thiện, và gia trì cho con luôn có năng lực chuyển hóa nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.” Quý vị có thể tụng đọc chú này trong khi thiền định.

Ví dụ, khi quý vị giặt một miếng vải dơ bẩn, nước đen chảy ra với bụi đất. Quý vị đâu có xem đất bẩn đấy là thứ xấu vì điều đó có nghĩa là mảnh vải của quý vị giặt sẽ thành sạch sẽ. Cũng như thế, khi quý vị thực hành pháp thì các nghiệp tiêu cực có thể trổ chín làm cho quý vị mắc bệnh, do quý vị đã thanh tẩy rất nhiều bất thiện nghiệp qua thực hành pháp. Vì thế, quý vị phải vui mừng hoan hỉ khi mình u buồn trầm uất!

Phiền não khổ đau hiện diện trước tiên là do chúng ta bị chi phối bởi ngã, bởi tâm vị kỷ ái trọng tự thân, bởi bám luyến, sân hận, phá phạm giới tu và các hành vi làm buồn lòng các bậc đạo sư linh thiêng, những vị thầy tâm linh trong các kiếp quá khứ. Phiền não đau khổ này gây ra bởi ngã, bởi tâm vị kỷ chấp thật. Vậy, thay vì chấp nhận cái trầm uất đó  thì hãy trả nó về với cái tâm vị kỷ ái ngã. Dùng phiền não như trái bom để công phá những niệm tưởng lầm lạc về bản ngã. Sau đó hãy thiền quán về tính không của bản ngã hiện hữu độc lập.

Đây là một số phương cách sự dụng tâm phiền não trầm uất để thành tựu giác ngộ nhanh chóng. Sử dụng nó để trau dồi lòng từ ái và tâm Bồ đề, quý vị có thể tích lũy công đức vô lượng bao la như hư khôngthanh tịnh một lượng ác nghiệp không thể tưởng tưởng được. Nó được sử dụng như trái bom mạnh mẽ công phá suy niệm lầm lạc về sự cái ngã hiện hữutự tính, cái đã gây ra đau buồn phiền não cho chúng ta. Nó chính là ma chướng cản lối giác ngộ và ngáng trở sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, là cánh cửa dẫn đến mọi khổ đau.

Quý vị cũng cò thể thực hành một số pháp tu sơ khởi như tụng minh chú Kim Cang Tát Đỏa để thanh tịnh nghiệp chướng gây ra phiền não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1488)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1935)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2065)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1673)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1585)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1651)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2220)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1914)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1855)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1689)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2003)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1622)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1767)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1977)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1513)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1759)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1730)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1975)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1747)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1603)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1574)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1589)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1505)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2028)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1591)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2134)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1782)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1858)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2054)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2323)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2351)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1886)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1693)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1719)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2054)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2582)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1478)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1444)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1604)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant