Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nghiệm Người Xưa Trong Việc Giáo Dục

16 Tháng Mười Hai 201513:33(Xem: 8641)
Kinh Nghiệm Người Xưa Trong Việc Giáo Dục

KINH NGHIỆM NGƯỜI XƯA
TRONG VIỆC GIÁO DỤC


Thích Đạt Ma Phổ Giác

Kinh Nghiệm Người Xưa Trong Việc Giáo Dục


Ca dao Việt Nam có câu:

Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

Thông thường các bậc cổ nhân là những người đi trước lớn tuổi, đã từng trải nghiệm trong cuộc sống, đã thắm thía cuộc đời nhiều nỗi đắng cay. Nên các ngài thường lấy kinh nghiệm thực tiễn, để hướng dẫn cho người sau có những kinh nghiệm quý báu, dù thời thế có thể đổi thay, nhưng những lời dạy ấy, vẫn không bao giờ bị mai một.

Có một bầy rùa đang sống trong một hang động hoang dã xa xôi, nơi đây ít người lui tới. Cách đó không xa, có một đồng cỏ xanh tươi bao bọc chung quanh hồ nước trong vắt, rất thích nghi với đời sống loài rùa. Vậy cớ sao, bầy rùa kia lại ở nơi hoang dã, để phải chịu cảnh sống cơ cực bần hàn? Chính vì vậy, mà các rùa con hay thắc mắc với mẹ chúng, tại sao chúng con không được sống nơi trù phú, phì nhiêu để hưởng thụ các món ngon vật lạ, mà phải sống cơ cực nơi hang sâu núi thẳm vậy mẹ? Các con không biết đó chứ! Tuy nơi đây cực khổ thiệt, nhưng đảm bảo được tính mạng an toàn cho các con. Chỗ có nhiều lợi dưỡng, là nơi giăng bẫy của một số người ác tâm, họ luôn rình rập chúng ta, sẵn sàng bắt lấy chúng ta để làm thịt.

 Mặc dù được nghe rùa mẹ giải thích cặn kẽ, nhưng đám rùa con vẫn còn háo hức, thèm thuồng được một chuyến chu du miền hoa thơm cỏ lạ. Chúng cùng to nhỏ với nhau, chắc là không có người ác tâm, như mẹ mình nói đâu, một con trong bọn nói, mình lớn cả rồi lại thông minh lanh lợi, nếu lỡ gặp người ác tâm bọn mình liền lặn ngay xuống đáy hồ, họ làm sao bắt được? Hay quá! Hay quá! cả bọn rùa reo lên. Sợ nguy hiểm mà bỏ qua thú vui trước mắt, thật là uổng phí quá chừng. Chúng ta phải ra đấy ngắm cảnh xem hoa, để tận hưởng khoái lạc cuộc đời, há chi phải tự giam cầm nơi hang cùng hiểm hóc và nhỏ hẹp này.

 Trong lòng nghĩ như vậy, nhưng chúng vẫn còn lo sợ. Do ham muốnthèm khát thôi thúc, cả bầy rùa đồng quyết định ra hồ chơi một chuyến cho biết. Cuộc phiêu lưu bắt đầu, chúng âm thầm xuống khe núi, lặng lẽ bò đến bờ hồ, lòng vô cùng phấn khởi và thích thú trong chuyến du hí đầu tiên. Nhớ lời rùa mẹ dặn, chúng cảnh giác coi có sự cố gì xảy ra không?

Nhưng nhìn quanh, nhìn quẩn, chẳng thấy có dấu hiệu gì là đáng nghi ngờ và nguy hiểm, nên chúng không còn lo sợ nữa, vô tư đùa nghịch với nhau không cần cảnh giác. Chúng tự nhủ thầm tiếc quá, bấy lâu nay bị giam hãm nơi nước độc rừng sâu, bỏ phí bao tháng ngày vui thú đầy khoái lạc hấp dẫn này. Tưởng chừng như cuộc vui được kéo dài trọn vẹn, nào ngờ đâu giông bão đang kéo đến, mà chúng vẫn không hay biết gì.

 Bất thình lình, từ trên không trung, một tấm lưới phủ trùm trên đầu chúng chụp xuống, lũ rùa cố gắng hết sức bò thật nhanh nhưng không còn kịp nữa, tấm lưới đã tóm gọn tất cả! Chỉ có một con trong bọn nhờ tinh mắt, nhanh chân nên đã trốn thoát, về được tới nhà. Rùa mẹ biết chuyện không may đã xảy ra, khi thấy rùa cả trở về một mình, liền hỏi lũ em con đâu rồi sao không thấy, chắc tụi con lén ra hồ chơi phải không? Mẹ đã bảo rồi mà, các con chẳng chịu nghe. Rùa anh buồn bã nói với rùa mẹ, con nhớ lời mẹ dặn, cảnh giác trước mọi tình huống xảy ra, nên con đã thoát được lưới tử thần của những người ác tâm, còn các em con do mải mê vui đùa hưởng lạc thú, nên đã bị bắt hết cả rồi.

 Rùa mẹ nghe nói, liền khóc rống lên, con ơi là con. Mẹ đã bảo rồi mà, các con không chịu nghe, nên mới xảy ra chuyện đáng tiếc như thế này. Xưa nay, ông tổ nhà rùa chúng ta đã từng khuyên nhủ con cháu, phải nên sống trong rừng sâu núi thẳmtu thân tích đức, đừng vì ham chỗ đẹp đẽ cao sang quyền quý, mà phải chuốc họa vào thân. Các con còn quá nhỏ, ăn chưa no, lo chưa tới, không chịu nghe lời mẹ dặn, nên đã tự giết mình khi tuổi đời còn non trẻ.

 Câu chuyện ngụ ngôn trên đã cho chúng ta một bài học sống ở đời, con người vì quá đam mê lạc thú trần gian, nên bỏ ngoài tai những lời chỉ dạy của người xưa đã qua thời gian trải nghiệm trong cuộc sống. Những bậc hiền nhân, những người đi trước từng có nhiều kinh nghiệm, trong trường đời danh lợi và đã đứng lên từ những vấp ngã, để vượt qua cạm bẩy cuộc đời.

 Do ỷ tài cậy sức, học cao hiểu rộng, một số người xem thường lời dạy cổ nhân và nghĩ rằng thánh nhân thời xưa lạc hậu, nên họ nói: “Tuổi trẻ thời nay khôn hơn người xưa nhiều” nhưng họ đã quên mất một điều, người xưa nhờ có tu tập, biết quán chiếuxem xét, khi muốn làm việc gì. Người trí khi nghe lời dạy thánh nhân, biết được tai hại đam mê hưởng thụ quá đáng, nên tránh được những sai lầm đáng tiếc. Còn chúng ta, vì quá mê muội và tự mãn trong sự hiểu biết của mình, chẳng thèm lắng nghe những lời chỉ dạy của người xưa nên mới bị mang họa vào thân. Vì thế, cổ nhân từng răn nhắc chúng ta: “Không thầy đố mày làm nên” chúng ta quá coi thường lời dạy người xưa, không thèm học hỏi lắng nghe ỷ lại tài năngsức lực của mình. Những lời chỉ dạy bổ ích của bậc trưởng thượng đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương chân thật, giúp chúng ta không rơi vào hố sâu tội lỗi. Chúng ta đã biết, sự sống trên thế gian này muốn tồn tại, phải tương tàn tương sát lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đó là nói sự sống của loài súc sanh. Còn con người thì sao? Con người nhờ có trí khôn và sự hiểu biết nên có thể nhận định suy xét, tìm hiểu đúng sai, nhưng một khi con người đã làm ác rồi, thì không ai bằng.

 Bởi vậy người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng thương tưởng chúng ta, đắng môi, mỏi miệng, để truyền đạt cho nhân thế những lời dạy quý báu, bổ ích. Nhưng chúng ta không chịu nghe, đến khi gặp nạn rồi đành chịu chết chìm trong tội lỗi, có sám hối ăn năn cũng không làm sao kịp. Lũ rùa kia không nghe lời dạy của mẹ, cả đàn ngốc nghếch ngông nghênh để tự làm hại mình, như chú bé con vì ham chút mật ngọt trên dao bén, mà phải chịu họa đứt lưỡi.

 Riêng chú rùa đàn anh, luôn nhớ lời mẹ dạy và lúc nào cũng cảnh giác cao độ, nên đã thoát khỏi lưới tử thần trong đường tơ kẽ tóc. Nhiều người tự cho mình có đủ khả năng, ngang dọc tung hòanh trong thiên hạ, đến khi mang họa vào thân, mới thấy lời dạy cổ nhân thật là chí lý, có ăn năn hối hận thì cũng đã muộn màng. Chúng ta thường quên mất một điều, bậc thánh nhân, người hiền đức, các ngài đã từng trải qua bao gian nan trắc trở, nhờ đó mà kinh nghiệm sống thường rất chừng mực và sâu sắc. Thậm chí có những điều ta chưa biết, nhưng các ngài đã biết, rồi bằng kinh nghiệm của chính mình, để chỉ cho chúng ta biết được điều hay lẽ phải, tránh được tai nạn trong đời. Ấy thế mà có người chẳng chịu nghe, ngược lại còn phê phán người xưa sau quá lạc hậu.

 Ngày nay trên đà tiến bộ của văn minh khoa học, vật chất, đã góp phần giúp cho con người cải thiện đời sống ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng ngược lại kéo theo nhiều tệ nạn xã hội, do nhu cầu hưởng thụ quá mức dẫn đến tình trạng cướp bóc giết hại lẫn nhau, bất chấp luân thường đạo lý làm người. Người sau, do tiếp thu nền văn minh vật chất hiện đại nên đa phần tiến bộ hơn người xưa, do đó sanh ra ỷ tài cậy sức. Tự cho mình là thầy thiên hạ, chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ, thiếu kinh nghiệm tu tập, cho rằng mình thông minh lanh lợi, sinh tâm cống cao ngã mạn. Ai tán thán ngợi khen nịnh hót tâng bốc thì hoan hỷ, ai thành tâm khuyên nhủ, góp ý, thì cho rằng người đó là bần cố nông dốt nát. Thường hay bảo thủ không lắng nghe ý kiến người khác, chỉ biết làm theo ý mình một cách mù quáng, nói và làm trái ngược nhau. Người ở xa không biết, cho rằng người đó là thánh sống, nhưng khi có dịp gần gũi thân cận, mới thấy sự thật quá phũ phàng.

 Nhiều người hiểu biết sai lầm, tưởng ai lý luận giỏi là người đắc đạo. Hiểu như vậy vô tình phỉ báng Phật pháp. Lý luận giỏi chưa hẳn là người đạt đạo nói và làm tương ưng mới thật là người đạt đạo. Đạo không nằm trong ngôn ngữ lời nói, mà đạo thể hiện nơi hành động thực tế, nói và làm không trái ngược nhau, nói được phải làm được, không thể nói việc trên trời, mà làm việc dưới đất. Lúc nào cũng muốn thay đổi thiên hạ mà không tự thay đổi chính mình. Muốn thiên hạ theo mình, mà mình không tự làm tốt, biết khuyên mọi người hãy sống với thực tế, mà mình lại vu vơ huyền hoặc. Mình sống bằng lý luận môi mép, mà lại khuyên mọi người sống chân thật, thực là lời nói việc làm trái ngược nhau, nói một đường làm một nẻo.

 Trong nhà Phật thường nói: “Mình không biết lội, mà muốn cứu người chết đuối, thật là vô lý.” Vậy mà có một số người chẳng biết lội lại thích cứu người, đúng là mâu thuẫn cuộc đời. Hiểu biếtthực hành khác xa một trời một vực. Nhiều người giỏi nghiên cứu nhưng không có khả năng thực hành, chỉ nghiên cứu suông, nói suông. Thực tế đã cho chúng ta thấy rất nhiều nhà lãnh đạo giỏi, không có trình độ chuyên môn cao, nhưng họ biết thích nghi nhu cầu cuộc sống, nên đa phần đều dễ thành công đem lại lợi ích thiết thực đến cho nhiều người.

 Còn những nhà nghiên cứu suông, nhờ có biện tài ngôn ngữ và có phước duyên lợi khẩu, nên dễ thuyết phục mọi người tin theo, nhưng thực tế lại rất phũ phàng, vì lời nói việc làm trái ngược nhau. Cho nên, học kinh nghiệm của người xưa thật là quý báu vô cùng. Tuy các ngài nói ít! Nhưng, lời nói đó không thể mai một theo thời gian, vì các ngài biết cân nhắc tuỳ thời tuỳ duyên, biết nương theo phong tục tập quán của xã hội để làm lợi ích cho nhân loại. Do sự phát triển quá nhanh chóng, con người cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất, nên coi thường lời dạy của người xưa. Có người tuy không bị vật chất cám dỗ, nhưng lại bị danh vọng trói buộc.

 Chúng tôi may mắn gặp được Phật pháp, nhờ có môi trường tốt nên chúng tôi cũng đã từng bước vượt qua nhưng không phải dễ dàng, nếu tự mãn cho là đủ thì vẫn bị thói quen xấu chi phối. Để thấy, cái gì đã trở thành thói quen thâm căn cố đế, nếu muốn thay đổi chúng ta phải trả một giá rất đắc như người chết đi sống lại, thì mới thật sự chuyển hóa chúng. Nếu đơn giản và dễ dàng, thì người ta đâu cần phải tầm sư học đạo, đâu phải khổ công rèn luyện tinh cần miên mật, mới có thể vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Người càng học cao hiểu rộng thì sự chấp trước càng lớn, nếu không biết tu tậpbuông xả. Cho nên, nhà Phật không đặt nặng vấn đề văn hay chữ giỏi hoặc biện tài lưu loát. Ngày xưa Tổ Huệ Năng không biết một chữ, khi vào chùa chỉ biết giã gạo nấu cơm làm công quả, sau này trở thành vị Tổ thứ sáu Thiền sử Trung Hoa để lại nhục thân cho đến bây giờ. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Tại miền Bắc đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay, có đến năm nhục thân của các vị thiền sư để lại là do nhờ công năng tu tập.

 Người tu chứng không phải do học cao hiểu rộng mà được, mà chỉ thấy rõ thân này là một tổ hợp vật chất, do nhiều yếu tố thành hình, không có cái ngã thực thể cố định. Biết được như thế, chúng ta làm tất cả việc mà không thấy mình làm. Người học cao hiểu rộng, nếu không có sự tu tập thì sự chấp ngã càng lớn. Do đó dễ làm tổn hại cho nhiều người, khi họ lợi dụng quyền hành thế lực.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2211)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2640)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2517)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2321)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2633)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2418)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3228)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2517)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2523)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2180)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2568)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3032)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2634)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2685)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2952)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2527)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2558)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4058)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2760)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3034)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2278)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2492)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2790)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2983)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2855)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2598)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2615)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3178)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2372)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2467)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2583)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2670)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2724)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3250)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2545)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2121)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2581)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2036)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2805)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2882)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2916)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2689)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2501)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2764)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant