Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lý Tưởng Của Tôi: Bồ Tát Đạo

16 Tháng Giêng 201619:25(Xem: 8564)
Lý Tưởng Của Tôi: Bồ Tát Đạo

LÝ TƯỞNG CỦA TÔI: BỒ TÁT ĐẠO

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Lý Tưởng Của Tôi Bồ Tát Đạo


Đặc Tính Của Tôi Như Một Tu Sĩ

TÔI THƯỜNG TỰ GIỚI THIỆU mình như một tu sĩ Phật Giáo giản dị vì cá nhântính cách của tôi được xây dựng chung quanh chí nguyện của tôi như một tu sĩ. Mặc dù tôi khi tôi cảm thấy một liên kết rất mạnh mẽ với những Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đây, nhưng tôi tự xem tôi như một tu sĩ trước nhất. Tôi là một tu sĩ trước khi là Đạt Lai Lạt Ma!

Điều này rõ ràng chắc chắn như vậy, và nó bén rể một cách thật sâu xa trong tâm thức tôi, và tôi thậm chí nhớ tôi là một tu sĩ ngay trong giấc mộng. Ngay cả trong những phần tệ hại nhất của cơn ác mộng tôi cũng không quên tôi là một tu sĩ. Nhưng tôi chưa bao giờ mơ thấy tôi là một Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Bằng tuệ giác của tôi, những phản ứng tại một trình độ ngoài tầm kiểm soát của tri thức chứng tỏ rằng ở tận đáy tâm hồn tôi có một dấu ấn không phai mờ của thể trạng như một tu sĩ của tôi. Tôi cảm thấy một cách rất mãnh liệt rằng tôi là một tu sĩ Phật Giáo.

Thệ Nguyện Một Tu Sĩ Của Tôi

TRONG ĐỜI SỐNG XUẤT GIA của Tây Tạng, có 253 giới cho tăng và 364 giới cho ni. Bằng việc quán chiếu chúng một cách nghiêm cẩn tối đa như có thể, tôi thoát khỏi những cám dỗ vô ích và những sự quan tâm mỗi ngày. Một số giới này có nhiều việc phải làm với nghi lễ - quy định, thí dụ một vị tu sĩ phải đi sau vị trụ trì bao xa. Những điều khác phải làm với những hạnh kiểm.

Bốn giới căn bản đáp ứng đến bốn việc cấm kỵ giản dị: một tu sĩ không giết hại, trộm cắp, hay nói dối về sự thực chứng tâm linh của vị ấy, và vị ấy cũng quán sát trinh tiết nghiêm ngặt. Nếu vị ấy phá vở một trong bốn thệ nguyện này, thì vị ấy không còn là một tu sĩ nữa.

Đôi khi tôi được hỏi có kỳ vọng thật sự để duy trì thệ nguyện về trinh tiết và một thệ nguyện như vậy có thể giữ được không. Điều ấy nên được nói là sự thực tập này không có nghĩa là đè nén khát vọng dục tình. Trái lại, thật cần thiết để chấp nhận toàn bộ sự hiện hữu của một khát vọng như vậy và để chuyển hóa nó qua sự rèn luyện của lý trí. Khi quý điều khiển đưa việc ấy vào trong tu tập, sẽ đưa đến kết quả một sự tinh thông về tâm thức rất lợi lạc. Khát vọng dục tìnhmù quáng, và nó đưa đến một rắc rối. Khi quý vị tự nói với mình, tôi muốn làm tình với người kia , quý bị đang bộc lộ một khát vọng mà không phải sự thông minh hướng dẫn. Trái lại, khi quý vị nghĩ, tôi muốn xóa bỏ sự nghèo đói khỏi thế giới, đó là một mong muốn có thể kiểm soát được bởi trí tuệ. Điều gì nữa, sự vừa ý dục tình tượng trưng một sự hài lòng không bền. Như một đại hiền nhân Ấn Độ Long Thọ nói: "Khi quý vị có một vết ngứa, quý vị tự gãi ngứa. Nhưng hoàn toàn không có một cơn ngứa thì tốt hơn là tự gãi ngứa trong một hồi lâu."

Những Sự Thiền Tập Hằng Ngày Của Một Tu Sĩ Phật Giáo

TÔI DÀNH TỐI THIỂU là năm tiếng rưởi đồng hồ một ngày để cầu nguyện, hành thiền, hay học tập. Tôi cũng cầu nguyện trong tất cả những lúc không có việc gì làm suốt cả ngày, trong những buổi ăn hay du hành. Như một Phật tử, tôi không thấy bất cứ sự khác biệt nào giữa sự thực tập tôn giáođời sống hàng ngày. Sự thực tập tôn giáo một công việc 24/7. Cũng có những sự cầu nguyện bắt phải thực hành trong mỗi hành vi, từ thức dậy đến tắm rửa, ăn uống, và ngay cả ngủ nghỉ. Đối với một hành giả mật tông tantra, những sự tu tập diễn ra trong cơn ngủ sâu và giấc mộng là một thứ nào đó quan trọng nhất, vì chúng chuẩn bị cho sự chết.

Việc hành thiền chính của tôi liên hệ đến tánh không và cốt ở việc tập trung vào sự liên hệ hổ tương trong trình độ vi tế nhất. Một phần của sự thực tập này liên hệ đến "bổn tôn du già", mà trong ấy tôi sử dụng những mạn đà la khác nhau, quán tưởng tự thân tôi như một loạt các bổn tôn. (Tôi không muốn nói qua việc này, những nhân vật ấy tồn tại bên ngoài hay độc lập). Khi tôi làm việc ấy, tôi tập trung tâm thức tôi trên một trình độ đến mức nó không còn bị thu hút bởi những dữ liệu mà nhận thức giác quan truyền đạt. Đó không phải là một trạng thái xuất thần, vì tôi vẫn hoàn toàn sáng suốt, nhưng đúng hơn là một sự rèn luyện trong sự tỉnh giác thuần khiết.

Thật khó để nhận biết những gì tôi muốn nói qua điều này, cũng khó như một nhà khoa học giải thích qua từ ngữ điều gì ông muốn nói qua không-thời gian (space-time). Ngôn ngữkinh nghiệm hàng ngày không thể chuyển dịch kinh nghiệm của sự tỉnh giác thuần khiết, mà việc làm chủ nó đòi hỏi qua nhiều năm.

Một  khía cạnh quan trọng của sự thực tập hàng ngày của tôi liên hệ ý tưởng về sự chết. Theo quan điểm của tôi, chỉ có hai thứ để làm trong sự sống với chủ đề về sự chết. Hoặc là quý vị chọn lãng quên nó - mà trong trường hợp ấy quý vị có thể may mắn đủ để xua đuổi ý tưởng ấy đi nơi khác trong một lúc - hay quý vị đối diện với khía cạnh này, quý vị cố gắng phân tích nó, và bằng việc làm như vậy quý vị cố gắng để giảm bớt những nguyên nhân của những nổi khổ đau không thể tránh khỏi nào đó. Cũng không phương pháp nào có thể đạt đến mục tiêu này trọn vẹn.

Như một Phật tử, tôi chấp nhận sự chết như một tiến trình bình thường của sự sống. Tôi chấp nhận nó như một thực tế và nó sẽ xảy ra cho đến khi nào tôi vẫn còn trong cõi sanh tử luân hồi. Biết rằng tôi không thể trốn thoát khỏi nó, tôi không thấy điểm nào để lo lắng về nó. Tôi nghĩ rằng chết hơi giống như bỏ lại sau lưng một mãnh áo quần cũ đã sử dụng. Tự trong nó không phải là chấm hết.

Như một Phật tử, tôi cũng tin rằng việc tu tập về sự chết là thiết yếu. Chính thời điểm ấy, những kinh nghiệm thậm thâmlợi lạc nhất có thể biểu hiện. Vì lý do này, có nhiều đại sư tâm linh chọn lìa thế gian này trong lúc hành thiền. Khi điều đó xảy ra, thân thể họ không bị phân hủy rất lâu sau sự chết lâm sàng.

Sống Như Một Vị Bồ Tát

NHƯ CHO SỰ THỰC TẬP tôn giáo cá nhân của tôi, tôi cố gắng để sống đời sống của tôi bằng việc đi theo những gì tôi gọi là "lý tưởng Bồ tát". Trong nhận thức Đạo Phật, một vị bồ tát là một chúng sanh dấn thân trên con đường hướng đến Quả Phật và hoàn toàn hiến dâng để hổ trợ chúng sanh giải thoát khỏi khổ đau. Chữ bodhisatva - bồ đề tát đỏa - bồ tát, dễ dàng để hiểu nếu nghiên cứu hai thuật ngữ làm nên nó, bodhi - bồ đề và sattva - tát đỏa được phiên dịch riêng rẻ. Bodhi - bồ đề biểu thị tuệ giác thông hiểu bản chất cứu kính của thực tại, và sattva - tát đỏa là một cá nhân được động viên bởi lòng từ bi phổ quát. Cho nên lý tưởng bodhisatva - bồ đề tát đỏa - hay lý tưởng bồ tát có nghĩa là một nguyện vọng thực hành lòng từ bi vô hạn với tuệ giác vô biên.

Thực Hành Tâm Linh Nhằm Để Trở Thành Những Con Người Tốt Đẹp Hơn

ĐỪNG MONG ƯỚC những thứ phi thường với tôi, như những sự gia hộ quyền năng vô hạn có thể chuyển hóa đời sống của quý vị một cách kỳ diệungay lập tức. Quý vị sẽ sai lầm để ấp ủ những tư tưởng như vậy - chúng không có gì đối với thực tế. Tôi là một tu sĩ Phật Giáo giản dị vốn đã thực tập từ lúc mười tuổi và cố gắng để sống phù hợp với giáo lý nhà Phật.

Như một tu sĩ giản dị, tôi là một người thông dịch của những đạo sư siêu phàm và tôi lễ phủ phục một cách khiêm tốn trước các vị ấy. Khi Đức Phật còn tại thế, ngài giống như một tu sĩ bình thường; ngài du hành bằng chân, tay cầm bình bát khất thực. Sau ngài, nhiều hành giả vĩ đại đã có cùng hiện tướng bên ngoài, trông có vẻ nghèo nàn nếu người ta không nhìn vượt khỏi hiện tướng ấy.

Chúng ta chia sẻ chung với Đức Phật cùng năng lực cho từ tâm và tĩnh lặng. Nhưng chúng ta không phải luôn luôn biết điều này, và đôi khi chúng ta cố gắng để tàn phá cả hạnh phúc của người khác lẫn sự yên bình nội tại của chúng ta. Tất cả chúng ta muốn tránh khổ đau và được hạnh phúc. Chúng ta có một tri thức kinh nghiệm uyên thâm của cả hạnh phúc lẫn khổ đau vốn thông thường với tất cả chúng sanh.

Tôi đang chia sẻ với quý vị kinh nghiệm sống của tôi, căn cứ trên giáo lý nhà Phật và sự thực hành, không có bất cứ tham vọng nào trong việc tuyên truyền Phật Giáo hay có thêm những môn nhân mới. Những truyền thống tâm linh lớn, tất cả đều rất sống động trên năm lục địa, quán chiếu những tính khí khác nhau của con người trên thế giới. Họ làm sáng tỏ những nền tảng và nguyên tắc đạo đức cho phép chúng ta trở nên tốt đẹp hơn bằng việc phát triển những phẩm chất nhân bản như yêu thương, nhẫn nại và bao dung và bằng việc chiến đấu với những tham dục quá đáng của chúng ta.

Thật thích đáng hơn để giữ những truyền thống tâm linh vốn có của chúng ta. Đó là con đường xác thật hơn. Tôi luôn luôn hơi nghi ngờ khi tôi giảng dạy Phật Giáo trong một quốc gia như Pháp, vốn hầu hết là Ki Tô Giáo và Thiên Chúa La Mã, vì tôi tin rằng luôn luôn thỏa mãn hơn để làm sâu sắc và bảo tồn tôn giáo của tổ tiên họ. Không cần thiết để trở thành Phật tử khi quý vị là một người phương Tây.

Nếu quý vị thẩm tra những tôn giáo lớn trên thế giới, thì quý vị có thể phân biệt về một mặt những quan điểm triết lý và siêu hình, và mặt kia là sự thực tập tâm linh hàng ngày. Mặc dù những quan điểm triết lý khác biệt và đôi khi mâu thuẩn với nhau, nhưng trong sự thực tập tâm linh, tất cả những tôn giáo liên hệ với nhau. Tất cả đều giới thiệu sự chuyển hóa dòng suối ý thức nội tại của chúng ta và điều đó làm chúng ta tốt đẹp hơn, những con người sùng mộ hơn.

Thật tốt đẹp để tạo nên bất cứ hệ thống nào trong những truyền thống tôn giáo nhưng tốt hơn là thấu hiểu rằng tất cả những giáo lý ấy vốn để thích nghi đến những tính khí đa dạng của con người. Điều gì hơn thế nữa, trong chính Phật Giáo quý vị có thể thấy nhiều giáo huấn của Đức Phật, Ngài đã dạy một giáo thuyết được diễn tả như có "84 nghìn cửa." Tùy chúng ta nhận ra nhu cầu nào trong những quan điểm triết lý khác nhau và để biết rằng mỗi một truyền thống tâm linh vốn đều là thánh thiện, vì mỗi tôn giáo đã hổ trợ hàng triệu người để tiến bộ và ít khổ đau hơn bằng việc trở thành tốt đẹp hơn.

Đối với mỗi người, có một con đường duy nhất và một lẽ thật duy nhất để thành tựu, nhưng mỗi người vẫn phải chấp nhận chân lý của những truyền thống khác. Ngay cả nếu một truyền thống khác chống lại niềm tin của chính chúng ta, nhưng nó có lý do riêng của nó để hiện hữu, trong việc hổ trợ nó cung ứng cho người khác. Thế nên, về một mặt, chúng ta nên có niềm tin của chính chúng ta, nhưng về mặt khác, chúng ta nên giữ tâm tư chúng ta cởi mở và bao dung đối với những ai không muốn chia sẻ chúng.

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 15, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2241)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2543)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3271)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2558)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2233)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2593)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2662)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2728)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2785)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3086)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2296)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2884)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2493)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2702)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2836)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2963)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant