Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Trở Về

30 Tháng Giêng 201618:59(Xem: 8961)
Đường Trở Về

ĐƯỜNG TRỞ VỀ

Thích Thông Phương

Đường Trở Về


Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa chắc rằng không thể quên câu chuyện: đứa con ông Trưởng giả bỏ cha đi lưu lạc lang thang, làm gã cùng tử thật đáng thương. Từ địa vị là con một ông Trưởng giả giàu có, gia tài, sự sản không thể tính kể, đó là một kho tàng mà mình sẽ thừa hưởng chứ không ai khác; nhưng đành bỏ đi lang thang, ăn mày từ nơi này sang nơi khác, đến nỗi mỗi ngày càng xa quê cũ. Rồi trong một giây phút nào đó, trên bước đường lưu lạc đó đây, bỗng dưng gã ăn xin lần lượt trở về đúng vào ngôi nhà xưa ấy, gặp ngay người cha ấy, nhưng nào có hay biết, vì đã quên mất cội gốc của mình từ lâu.

Đã tự mang mặc cảm mình là kẻ ăn mày lang thang không ra gì, thì đối với một người cha giàu có, sang trọng như vua chúa kia bao giờ dám ngó đến, nói chi là nhận đó làm cha. Đọc câu chuyện trên, chúng ta cảm thấy thương tiếc cho gã cùng tử đó vô cùng! Song xét lại, chúng ta ngày nay có khác gì với gã cùng tử kia! Mỗi người chúng ta hiện nay, đâu không phải là kẻ đang thừa kế một gia sản vô vàn trân quý, mà đành bỏ đi lang thang trong khắp nẻo luân hồi, làm khách phong trần đói khát, khổ sở !

Điều đó không có gì lạ, bởi chúng ta ai ai cũng có đủ một ông cha "chẳng sanh chẳng diệt", với một kho tàng "công đức trí tuệ vô biên", dùng mãi không hết, song vì một niệm bất giác chợt dấy lên, nên đành quên đi, để trôi dạt theo dòng thức sanh diệt và đuổi bắt những pháp hư ảo bên ngoài, đến nỗi phải nhọc nhằn lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, lên xuống không ngừng. Càng theo cái sanh diệt hư huyễn thì càng xa cái chân thật vô sanh, tức càng ngày càng xa quê hương chính mình. Cảm sâu ý nghĩa này, Vua Trần Thái Tông đã nói trong bài kệ NÚI THỨ NHẤT, sách Khóa Hư Lục:

Chân tể huân đào vạn tượng thành,
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Trời đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa nay không móng cũng không manh.
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Muôn tượng muôn vật giữa thế gian nầy vốn không có đầu mối, không do ai làm ra cả, mà chỉ do trời đất, âm dương nấu nung, chuyển hóa ngưng đọng mà hiện thành. Đây là ngầm ý nói, mọi vật do mê mà hiện, thật không có mối manh sanh ra. Tức ngay khi sanh là không sanh. Bởi vậy, con người vốn ở trong thể không niệm, không sanh, nhưng vừa chợt có niệm khởi liền sai đi, ngay đó trái với thể không sanh mà nhận lấy có niệm, có sanh. Đó là trôi dạt theo dòng sanh diệtkinh Lăng Nghiêm gọi là "vốn ở trong thể thanh tịnh sẵn như vậy, mà bỗng dưng phát sanh núi sông, quả đất" (thanh tịnh bản nhiên hốt sanh sơn hà đại địa). Chính ở một niệm khởi này, nên đành trái với cội nguồn không sanh, bỏ mất chân thể hằng hữu, mà đi xa dần, xa dần trong kiếp sanh tử. Rồi mũi đắm theo các mùi hương, lưỡi tham lấy nơi vị, mắt bị mờ với các sắc, tai thì mê bởi những tiếng, tức là sáu căn chạy đuổi theo sáu trần, bị nó lôi đi mãi, quên mất cả đường về. Vì vậy mới nói rằng, làm khách phong trần lang thang mãi, mỗi ngày mỗi ngày càng đi xa quê hương không biết bao nhiêu dặm trình mà kể. Nghĩ lại có thật đáng thương cho mình chăng? Đó là nói chúng ta đã bỏ mất quê hương chân thật sáng ngời muôn thuở mà đi nhận lấy những bóng dáng hư huyễn chập chờn trên đường trần ai mê muội, rồi vui theo những cái vui tạm bợ, chợt có chợt không, nên chưa bao giờ biết được niềm vui bất diệt tại quê nhà. Chính vì thế, Đức Phật mới ra đời để đánh thức chúng ta nhớ lại. Chư Tổ ra đời, dùng mọi cách để khơi dậy chỗ này. Vậy thì, bây giờ chúng ta làm sao trở về ? Và biết đâu là con đường trở về ?

Các Tổ thường nói: "Nhân đất té, phải nhân đất mà đứng dậy". Chính từ chỗ mình mê đó, cũng chính là chỗ mình quay trở về chứ không đâu khác. Kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài A-nan hỏi Phật về nghĩa trói và mở, thì chẳng phải một Đức Phật Thích Ca, mà mười phương chư Phật đồng phóng quang đến thế giới này, đồng bảo Ngài A-nan: "Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không vật gì khác. Ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề, khiến ông mau chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ông chứ không vật gì khác." Nói đơn giản, chính sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát Niết-bàn. Đây là điểm rất quan trọng, chúng ta nghiệm xét kỹ, sẽ thấy con đường giải thoát ngay trước mắt đây thôi, chứ không xa lạ tận nơi nào như mình thường tưởng tượng.

Chính lâu nay, chúng ta từ nơi sáu căn thấy nghe, hiểu, biết chạy đuổi duyên theo sáu trần mà dẫn mình đi trong luân hồi, tạo nghiệp không lường. Giờ đây, cũng ngay sáu căn đó, mình biết xoay trở lại, không chạy theo sáu trần nữa, tức là con đường trở về chứ gì. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi Phật bảo các vị Thánh thuật lại chỗ chứng ngộ của mình để Ngài Văn Thù chọn căn viên thông, thì trong hai mươi lăm vị Thánh thuật lại đó, đều không ngoài sáu căn, sáu trần, sáu thức mà chứng viên thông, trừ bảy vị từ nơi bảy đại. Điều đó cho thấy rõ là, ngay nơi sáu cửa này đều có đủ con đường trở về để chứng ngộ viên thông. Đó là trong kinh, bước qua trong nhà Thiền cũng không thiếu gì trường hợp các Thiền sư tỏ ngộ từ nơi sáu căn.

1. Thiền sư Linh HựuQuy Sơn. Khi còn ở với Tổ Bá Trượng, một hôm Sư đứng hầu. Bá Trượng, Bá Trượng hỏi:
- Ai ?
Sư thưa:
- Con Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa.
- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.

Ngay khi Tổ Bá Trượng cầm chút lửa đưa lên bảo Ngài Linh Hựu: "Ngươi bảo không, cái nầy là cái gì?" Đó là Tổ mở cửa con mắt đưa Sư vào. Và Sư cũng thật lanh lợi chụp ngay cơ hội vào liền, không để lỡ mất.

2. Thiền sư Hy VậnHoàng Bá. Lúc Sư trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu. Có lần Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy Trụ trì:
- Vẽ cái gì đây?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vẽ hình cao tăng.
Bùi Hưu hỏi:
- Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?
Thầy Trụ trì không đáp được. Bùi Hưu hỏi:
- Trong đây có Thiền nhân chăng?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả.
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói.
- Hưu vừa có một hỏi, chư Đức tiếc lời, giờ thỉnh thiền nhân đáp thế một câu.
Sư bảo:
- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. Sư dùng tiếng trong thanh gọi:
- Bùi Hưu!
Bùi Hưu:
- Dạ!
Sư bảo:
- Ở chỗ nào?
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ.

Đây là Ngài Hoàng Bá mở cửa lỗ tai và Bùi Hưu cũng kịp thời thẳng vào, liền thấy thật tướng cao tănghiện tiền. Thật sung sướng biết mấy!

3. Thái sử Hoàng Đình Kiên đến nương theo Hối Đường, Hối Đường bảo:
- Như Khổng Tử nói: "Này các trò! Cho ta là giấu giếm ư? Ta không có giấu giếm gì các trò cả",
Thái sử căn cứ vào đâu mà lý luận?
Ông suy nghĩ để đáp. Hối Đường bảo:
- Chẳng đúng! Chẳng đúng!
Ông càng thêm mê muội.
Một hôm, ông theo hầu Hối Đường đi dạo núi. Bấy giờ hoa quế rụng đầy đất, Hối Đường mới hỏi:
- Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng?
- Ngửi thấy.
Hối Đường bảo:
- Ta không có giấu giếm gì ông cả.
Ông chợt tỉnh, liền lễ bái thưa:
- Hòa thượng thật là tâm thiết tha của lão bà.
Hối Đường cười nói:
- Chỉ cần ông về đến nhà mà thôi.

Trong đây thì Ngài Hối Đường mở cửa lỗ mũi đưa ông Hoàng Đình Kiên vào, và ông cũng đúng lúc vào ngay, quên đi một thời lang thang làm khách phong trần.

4. Thiền sư Huệ HảiĐại Châu. Lúc đầu Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:

- Từ đâu đến ?
Sư thưa:
- Ở Việt Châu, chùa Đại Vân đến.
- Đến đây cầu việc gì ?
- Đến cầu Phâït pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì ?
lễ bái, thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải ?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Ngay câu này, Sư tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.

Ở đây thì Mã Tổ mở cửa cái lưỡi đưa Ngài Huệ Hải vào. Ngài Huệ Hải cũng không chút chần chờ nhảy vào ngay, liền tự nhận ra kho báu nhà mình xưa nay vẫn đầy đủ, chưa từng thiếu thốn bao giờ, mà bấy lâu nay đành nhọc nhằn làm kẻ cùng tử lang thang!

5. Thiền sư Văn YểnVân Môn. Lúc Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc, vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư gõ cửa, Tôn Túc hỏi: "Ai?" Sư thưa: "Con." Tôn Túc hỏi: "Làm gì?" Sư thưa: "Việc mình chưa sáng, xin thầy chỉ dạy." Tôn Túc mở cửa, vừa trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế liên tiếp 3 ngày. Ngày thứ 3, Tôn Túc vừa mở cửa, Sư liền chen vào. Tôn Túc nắm đứng bảo: "Nói! Nói!" Sư suy nghĩ. Tôn Túc liền xô ra, nói: "Cây dùi đời Tần". Rồi đóng sầm cửa lại, kẹt nát bàn chân Sư. Cái đau thấu xương ấy khiến Sư ngộ nhập.

Đến đây, trường hợp hơi đặc biệt. Ngài Trần Tôn Túc bạo dạn mở cửa thân cho Ngài Văn Yển vào, và Ngài Văn Yển cũng khéo vào. Mới nhìn qua thấy Ngài Trần Tôn Túc như tàn nhẫn, nhưng chính cái đau đó khiến Ngài Văn Yển nhớ mãi không quên, chuyển xúc giác thành chánh giác.

6. Thiền sư Kỉnh Huyền ở Đại Dương. Lúc Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán.
Sư hỏi:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng ?
Lương Sơn chỉ Bồ-tát Quán Âm nói:
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ.
suy nghĩ để tiến ngữ, Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.

Chỗ này hơi khó thấy. Thiền sư Duyên Quán khéo mở cửa ý đưa Ngài Kỉnh Huyền vào đạo tràng vô tướng. Ngài Kỉnh Huyền cũng nhanh như chớp thẳng vào, nếu chậm một chút, đã theo cái suy nghĩ đi xa mấy ngàn dặm rồi.

Như vậy, để thấy rõ rằng, ngay trên đường mê chính là đường giác, lối về là đây. Như lời dẫn trong mục "Thấy trâu" của Tranh Chăn Trâu đã nói: "Từ tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động dụng đành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày lên chẳng phải vật khác".

Khi mê thì cũng "Thấy nghe" này mà mờ tối. Lúc giác cũng "Thấy nghe" này mà sáng ngời. Tức là con trâu tâm luôn hiển lộ rõ ràng nơi cửa sáu căn và trong mọi động dụng hằng ngày không chút gì nghi ngờ. Hay nói ngược lại, muốn gặp con trâu tâm, phải ngay cửa sáu căn và trong mọi cử chỉ, hành động đó, khéo nhận ra thôi, chứ không đâu khác. Như Ngài Sùng Tín hầu Thiền sư Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm, Sư thưa:

- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.
- Chỉ dạy ở chỗ nào ?
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu ?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư khai ngộ.

Quả thật, chính ngay chỗ động dụng hằng ngày, bưng cơm, dâng trà, xá chào v.v... luôn luôn hiển lộ ánh sáng chân thật không một phút giây nào thiếu sót, vậy mà chúng ta có bao giờ nhớ biết đâu!

Bởi vậy, chư Tổ thường bảo là "thật tự đáng thương thay!". Cũng như trong nước biển vốn có chất muối, nếu người khéo biết, liền dẫn nước biển vào ruộng để cho bốc hơi, tức có muối dùng. Chúng ta nhận biết rõ ngay cửa sáu căn vốn có "thể chân thật" hằng hiển lộ, khéo dùng phương tiện tiến tu, thường soi trở lại không chạy theo sáu trần, thì sẽ sống được với thể chân thật, có đủ diệu dụng vượt thoát sanh tử, làm chủ muôn pháp tự tại. Đây là một sự thật trăm phần trăm, chỉ cần chúng ta vén chân mày lên, mở mắt ra, thì nó "rõ ràng sáng rỡ", không phải vật gì khác đáng nghi ngờ!
Cho nên, lâu nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô thủy, hết kiếp này đến kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi, không biết đâu là lối ra. Thì đây, lối ra đã mở, đường về đã hiện, chỉ còn đợi chúng ta cất bước đi hay không thôi. Đi, thì ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền trở về. Lừng chừng, thì cũng ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền bị trôi giạt. Chân lý quả thật sáng ngời trước mắt, quá gần gũi với chúng ta vô cùng, chớ không phải ở xa tận phương trời đâu đâu, qua mấy muôn ngàn thế giới khiến chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ một điều, vừa động niệm tức thân ở tại quê người. Vô niệm thì ngồi tại quê nhà cười ngất! Đường trở về là đấy!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2242)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2544)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3272)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2559)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2233)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2594)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2663)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2729)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2786)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3086)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2298)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2884)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3200)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2493)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2702)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2836)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2963)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2732)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant