Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Tôn Trọng Quyền Tự Do Của Con Người

05 Tháng Hai 201608:02(Xem: 8202)
Đạo Phật Tôn Trọng Quyền Tự Do Của Con Người

ĐẠO PHẬT TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI 

Thích Đạt Ma Phổ Giác


Đạo Phật Tôn Trọng Quyền Tự Do Của Con Người

Trong cuộc đời này có hai thứ tự do mà ai cũng có thể mong muốn: Đó là tự do thỏa mãn hưởng thụ về vật chất như tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, ăn ngon mặc ấm, ngủ nghỉ thoải máitự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tự do theo đúng nghĩa của nó là thật sự giải thoát khỏi các sự tham muốn hưởng thụ chứ không phải là tự do thỏa mãn dục vọng.

Các nước tân tiến văn minh, hiện đại chỉ công nhận loại tự do đầu tiên là tự do thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con ngườimọi người tôn thờ loại tự do ấy bằng tuyên ngôn dân chủ nhân quyền được luật pháp chấp nhận. Chính loại tự do hưởng thụ vật chất này mà thế giới con người lúc nào cũng tranh giànhtìm cách chiếm đoạt, giết hại lẫn nhau.

Loại tự do thứ hai là tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc về hưởng thụ vật chất nhờ biết cách làm chủ bản thânđiều phục được thân-miệng-ý nên an nhiên, tự tại giải thoát trong mọi hoàn cảnh. Chỉ có đạo Phật là biết tôn trọng quyền tự do con người khi không ép buộc và áp đặt một ai.

Có hai vị thầy nọ được mời dự lễ cúng dường trai Tăng tại nhà một Phật tử, họ được thân chủ tiếp đãi nồng hậu trong phòng khách. Tuy nhiên, có một điều làm cho vị thầy nhỏ tuổi hơn chú ý là trong nhà có một cái bể nuôi nhiều loại cá.

Vị thầy này cảm thấy không bằng lòng với việc nuôi cá trong bể vì không hợp với giáo lý từ bi của đạo Phật. Lũ cá kia thật là tội nghiệp vì không được tự do thoải mái bơi lội trong vùng sông nước mênh mông hay ao hồ rộng lớn.

Vị thầy lớn tuổi mới giải thích cho vị thầy trẻ nghe rằng: “Quả thực là những con cá ấy không được tự do bơi lội tung tăng theo sở thích riêng của chúng, nhưng chúng sống trong bể kính thì sẽ thoát khỏi nhiều mối nguy hiểm do các loài khác xâm hại.” Rồi vị thầy lớn lại tiếp tục liệt kê những lợi ích cá trong bể có được như sau:

Chúng ta có bao giờ thấy ai đi câu cá trong một bể cá trong nhà chưa? Chắc chắn là chưa! Vậy sự tự do đầu tiên mà những con cá kia có được là không bị những người đi câu đe dọa mạng sống. Chúng ta hãy thử tưởng tượng hoàn cảnh của những con cá trong ao hồ sông suối thiên nhiên xem mạng sống của chúng thường xuyên bị đe dọa như thế nào.

Khi chúng thấy những con mồi ngon béo bở do loài người giăng bẫy, chúng có biết chắc là khi xơi tái con mồi thì tính mạng vẫn an toàn hay không? Đối với những con cá được sống trong môi trường tự nhiên, mạng sống của chúng luôn bị đe dọa theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu và việc ăn của cá chất chứa nhiều nỗi hiểm nguy trong lo sợ. Bữa ăn ngon của chúng thường dẫn đến nhiều tai họa vì những miếng mồi béo bở.

Cá trong thiên nhiên ao hồ, sông suối thường sống trong khủng hoảng bởi nỗi lo sợ chết chóc bất đắc kỳ tử. Chưa kể đến trong thời buổi hiện nay nhiều sông hồ, ao suối bị ô nhiễm nặng bởi những con người không có lương tâm đạo đức. Những con cá trong bể kính sẽ thoát khỏi mối hiểm nguy bị cá lớn ăn thịt và bị những hiểm họa khác đe dọa mạng sống.

Trong tự nhiên có những con cá không thể tìm được thức ăn, hoặc ăn nhằm con mồi do loài người giăng bẫy. Cá trong bể kính thì cứ ngày hai lần được ăn bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Cho nên, những con cá trong bể kính không bị cái đói đe dọa.

Trong tự nhiên khi cá bị bệnh chẳng có ai săn sóc, điều trị nên đành chịu chết dần chết mòn trong đau đớn. Cá trong bể kính thì được chăm sóc thuốc men đầy đủ nên mối nguy cơ bị bệnh hoạn xâm nhập không quá đe đọa đến tánh mạng.

Nói xong, vị thầy lớn tóm tắt lại: “Làm thân cá trong bể kính được hưởng nhiều thuận lợi trong cuộc sống. Tuy chúng bị hạn chế đôi chút về không gian nên không được tự do bơi đi đây đi đó nhưng có thể thoát khỏi những mối đe dọa hiểm nguy bên ngoài.”

Cũng vậy, những người tu hành phải gìn giữ giới luật và sống trong khuôn khổ nhất định nên không được tự do theo đuổi những dục vọng thấp hènthỏa mãn những mong muốn này nọ. Nhưng họ sẽ từng bước thoát khỏi nhiều sự dính mắc, ràng buộc bởi tham lam, sân giận và si mê nên dễ dàng tiếp nhận được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Đã làm người thì tất nhiên chúng ta phải có nhiều mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, cộng đồng xã hội… không một ai có thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Khi mối tương quan này được hình thành thì con người sẽ bị ràng buộc trong luyến ái bởi sự thương ghét vì muốn chiếm hữu. Cha mẹ luôn bênh vực con cái, anh chị em bênh vực lẫn nhau, vợ phải bênh vực cho chồng… vì những người này là gia đình, người thân “của tôi”. Còn những người không nằm trong dòng máu huyết thống là kẻ xa lạ nên khi người thân sai phạm thì ta vẫn cố tình bao che, bênh vực, thậm chí còn tìm cách hại người kia để bảo vệ quyền lợi cho thân nhân mình.

Cá trong tự nhiên được ví như tất cả mọi người thích hưởng thụ vật chất đầy đủ mà không quan tâm đến phần tinh thần nên suốt cuộc đời sống trong đau khổ, lầm mê.

Cá trong bể kính được ví như những người tu theo đạo Phật nhờ có giới luật bảo hộ cùng với cung thiền địnhkiếm trí tuệ nên luôn sống trong bình yên, hạnh phúc, thoát khỏi mọi sự cám dỗ bên ngoài.

Chính vì vậy, để được tự do tự tại trong cuộc sống mà vẫn góp phần làm lợi ích cho xã hội đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên quán niệm, giám sát chặt chẽ thân-miệng-ý của mình.

Đây chính là kinh nghiệmđức Thế Tôn đã thực chứng và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử: “Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâmtham dục, vị khất sĩ ấy ý thứcnội tâmtham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thứcnội tâm không có tham dục. Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm khôngsân hận, vị ấy ý thức là trong tâm khôngsân hận. Mỗi khi tâm thức bị si mê, vị ấy ý thứctâm thức bị si mê. Mỗi khi tâm thức không si mê, vị ấy ý thứctâm thức không si mê.”

Để ta được tự do tự tại trong cuộc sống, không bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp, ngủ nghỉ thoải mái, ta chỉ cần nhận biết rõ tâm ý mình mà không cần phải chống đối, trừ khử thì tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt hiện tiền.

Chính vì lẽ đó nên đức Thế Tôn dạy rằng: “Này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.” – “Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu?” – “Này hiền giả, khi ta đứng lại, thời ta chìm xuống; khi ta bước tới, thời ta trôi giạt. Do vậy, này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.”

Bước tớichạy theo sự tham muốn hưởng thụ dục lạc, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt hoặc bị mất mát thì tâm sân hận phát khởi nên lúc nào cũng oán giận, ghét bỏ mà tìm cách trả thù.

Đức Phật là người duy nhất trên thế gian này đem lại cho nhân loại quyền bình đẳngtự do của con người. Ngài không nhân danh thần linh thượng đế hay đấng tối cao ban phước giáng họa như các truyền thống xa xưa, Ngài chỉ nhân danh con ngườicon người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Con ngườiđộng vật tối thượngsuy nghĩnhận thức sáng suốt bởi biết tư duy, nghiệm xét, tìm tòi. Con người ai cũng thích được thong thả, tự do, nếu có sự ép buộc kiềm chế từ bên ngoài là đánh mất quyền tự do của con người. Chính vì thế, chúng ta đến với đạo Phật không có điều kiện bắt buộc gì cả, chỉ cần ta có ý thức mến đạo, thích tu vì tình người trong cuộc sống là đủ rồi.

Chúng ta sau khi trở thành người Phật tử cũng không có sự bắt buộc nào. Khi phát tâm quy y Tam bảo, nhà Phật có khuyến khích mọi người nên giữ gìn 5 giới cấm. Trước tiên là không được giết người, sau đó hạn chế tối đa giết hại các loài vật, không gian tham trộm cướp, không tà dâm mà hay sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người hoặc lường gạt, không dùng và tiêu thụ các chất độc hại như uống rượu say xỉn hoặc dùng xì ke ma túy. Đó là phương tiện nhằm đem lại sự bình an, hạnh phúc cho quý Phật tử đó thôi.

Cho đến khổ đau và an vui của con người đạo Phật có nói rõ đều do con người tự do tạo lấy theo nguyên lý nhân quả mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Đức Phật nói: “Ta không có quyền ban phước giáng họa cho con người.” Ngài chỉ là vị thầy dẫn đường hướng dẫn cho mọi người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết định. Ta hành động tốt, hay giúp đỡ mọi người sẽ mang niềm vui đến cho mình, nếu hành động xấu sẽ tự chuốc quả khổ đau.

Tự do trong nhà Phật là kêu gọi mọi người ý thức tự giác để biết cách làm chủ bản thân qua thân-miệng-ý và thắng được mọi cám dỗ bên ngoài. Tất cả mọi thứ tiền tài, sắc đẹp, danh lợiquyền lực không lôi cuốn được ta là ta đã tự do. Người đời miệng luôn nói tự do, đòi tự do, kêu gọi tự dođam mê tửu sắc, vui chơi hưởng thụ quá đáng nên dẫn đến tan nhà nát cửa thì bao giờ mới được tự do?

Tự dochân giá trị sống của con người. Song, muốn tự do ta phải có đầy đủ giới-định-tuệ và sức mạnh nghị lực mới mong chiến thắng bọn ma mị tài, sắc, danh lợi… Không dính mắc mọi sự cám dỗ bên ngoài là ta đang được tự docuối cùng là dẫn đến quả giác ngộ, giải thoát.

Chúng ta giải thoát bằng cách nào? Thật sự, chúng ta không cần tìm giải thoát ở đâu xa, ngay nơi thân tâm này mình đã có đủ khả năng làm chủ bản thân qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bằng sự bảo hộ của giới luật cùng với cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Giới luật, thiền địnhtrí tuệ như cái đỉnh ba chân. Khi chúng ta phát huy và gìn giữ được ba yếu tố trên thì việc tu của chúng ta rất đơn giản, nhẹ nhàng. Giữ giới rất quan trọng vì nó là nhân dẫn đến khả năng định tâm trong thiền định, người phạm giới thì tâm niệm luôn toan tính lăng xăng.

Đối với tất cả vọng niệm ta không cần xua đuổi, khử trừ mà chỉ cần nhận diện và nhìn chúng như gió thoảng mây bay thì tất cả niệm sẽ tan hòa vào hư không. Khi đó ta thấy chỉ là thấy mọi hình ảnh sự vật mà không dính mắc vào đó nên vọng niệm không có cơ hội phát sinh, nhờ vậy ta an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chỗ này các Tổ thường dạy rằng niệm cho đến vô niệm vì vẫn thấy nghe mà thường biết rõ ràng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2220)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2522)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2534)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2193)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2589)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4086)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3305)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2685)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2596)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2050)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2708)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant