Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Phật Dạy Về Các Tín Ngưỡng Dân Gian

22 Tháng Hai 201617:04(Xem: 9727)
Lời Phật Dạy Về Các Tín Ngưỡng Dân Gian
LỜI PHẬT DẠY VỀ CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

Thích Đạt Ma Phổ Giác

LỜI PHẬT DẠY VỀ CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

Ngày xưa có một ông nhà giàu quanh năm suốt tháng cứ mải mê đầu cơ tích trữ, bồi đắp cho bản thân, nuôi tham vọng làm giàu, bất chấp mọi thủ đoạn, bóc lột nhiều người khác để mình được giàu có sung túc đủ đầy.

một lần vợ ông ta bệnh nặng, ông thỉnh một vị Tăng về nhà tụng kinh cầu an để tiêu trừ nghiệp chướng, bệnh tình qua khỏi. Ông nói với vị Tăng: Nhờ thầy tụng kinh cầu nguyện chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho gia đình tôi được bình an, việc làm ăn của gia đình ngày càng thêm phát đạt, vợ tôi mau qua khỏi cơn trọng bệnh, con cháu tôi sớm được thăng quan tiến chức và tiền bạc vô đều đều.

Vị Tăng nghe ông nhà giàu nói như vậy, nên muốn cảnh tỉnh ông ta, bèn đúng pháp làm lễ, khấn lớn tiếng rằng: Nguyện cầu chư Phật và chư Bồ-tát từ phương xa mau về đây từ bi chứng giám, hiện tiền gia chủ cầu khẩn chư Phật, chư Bồ-tát gia hộ cho gia đình ông ta được bình an, hạnh phúc, con đông cháu đầy, việc làm ăn ngày càng thịnh vượng, vợ ông bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, mọi người trong gia đình người thân đều được như ý muốn.

Nghe vị Tăng khấn nguyện như vậy ông nhà giàu lấy làm ngạc nhiên, nên mới thắc mắc: Tại sao sư phụ lại cầu khẩn Phật và Bồ-tát phương xa mà không thỉnh các vị ở gần đây, để các vị ấy đến đây ban phúc đức cho gia đình con nhanh chóng?

Vị Tăng trả lời: Sở dĩ tôi không cầu Phật và Bồ-tát ở gần là vì e ngại các vị ấy không chịu đến để giúp cho gia đình ông. Ông hãy suy nghĩ lại đi, ông nay đã trên 60 tuổi sắp gần đất xa trời rồi mà chưa từng biết giúp đỡ một ai nói chi là bố thí cúng dường, ngược lại còn tham lam bỏn sẻn, sân hận chửi mắng đánh đập người khác, không biết tôn trọng mọi người, có của dư thừa đem đổ bỏ, không chịu san sẻ cho người.

Bởi chư Phật và Bồ-tát ở gần đây đều biết ông tham lam bỏn sẻn, keo kiết, nên các Ngài sẽ không đến giúp gia đình ông đâu. Chính vì vậy mà tôi phải thỉnh cầu chư Phật và Bồ-tát ở phương xa về giúp ông ít nhiều gì đó!

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn mang một triết lý sâu sắc, nhằm nhắc nhở chúng ta phải tin sâu nhân quả, muốn được sống an vui hạnh phúc về vật chất lẫn tinh thần, thì phải biết gieo nhân tốt. Vị Tăng trong câu chuyện trên mượn việc cầu Phật và Bồ-tát phương xa mà không cầu Phật và Bồ-tát ở gần, để thức tỉnh ông nhà giàu quá tham lam, bỏn sẻn.

Chúng ta muốn cầu Phật và Bồ-tát có sự cảm ứng thì lúc nào cũng phải sống có nhân cách đạo đức tốt, biết giúp đỡ người khác khi gặp hoàn cảnh khó khăn luôn mở rộng tấm lòng lòng vô ngã vị tha… Phật và Bồ-tát là những bậc toàn chơn, toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, muốn cầu các Ngài có cảm ứng thì tâm niệmviệc làm của chúng ta, phải tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài.

Trên thế gian không chỉ riêng ông nhà giàu nọ, mà có rất nhiều người không biết tội phước là gì, cho nên không tin nhân quả, điên đảo làm các việc xấu ác, đến lúc gặp quả xấu, thì van xin lạy lục cầu xin Phật, Bồ-tát giúp cho.

Nhân quả công bằng khi đủ duyên thì quả tốt hay xấu sẽ đến, đâu có Phật, Bồ-tát ban phước giáng họa cho ta được. Nếu Phật làm được điều đó, thì đâu có khuyên ta hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. Phật luôn khuyên mọi người tin sâu nhân quả mà ráng cố gắng làm điều lành, dứt trừ việc ác và luôn giữ tâm ý trong sạch.

Những người có tâm địa không tốt, xấu xa, độc ác, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi thì làm sao có được kết quả tốt đẹp và làm sao có được sự cảm ứng nơi các Ngài. Khi chúng ta đã tin sâu nhân quả rồi, nếu muốn có cây lành trái ngọt thì phải biết gieo nhân tốt và tạo các duyên thích hợp, để nhân đó được phát triển và trổ quả lành.

Như chúng ta muốn sống lâu thì phải không sát sinh hại vật, trước là không được giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật khác hoặc dứt khoát không giết một vật nào. Thứ hai là phải có ý thức giữ gìn sức khỏe, siêng năng vận động, ăn uống tiết độ, làm việc có chừng mựckhông vui chơi trác táng quá đáng. Đã không giết hại rồi còn phải biết bố thí, phóng sinh các loài vật khi gặp cảnh sắp chết của nó.

Muốn được giàu sang thì phải biết bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia mỗi khi cần thiết, kế đến là siêng năng cần mẫn trong làm việc, biết tiết kiệm trong chi tiêu, không vui chơi hoang phí và trộm cướp lường gạt của người khác, đó là nguyên nhân dẫn đến nghèo cùng khốn khổ.

Tóm lại, nếu chúng ta không biết gieo nhân lành, và sống tốt với nhiều người khác thì khi gặp hoạn nạn chúng ta không thể cầu chư Phật, Bồ-tát giúp cho mình tai qua nạn khỏi được. Nhân quả nhãn tiền có cầu tất ứng là do nhân nhiều đời biết giúp người cứu vật, không có gì là đương nhiên khi không hoặc đấng tối cao ban phước giáng họa cho ta được.

Ngày nay, hiện tượng tín ngưỡng dân gian với nhiều hình thức làm cho con người không biết rõ bản chất thực hư của nó ra sao. Đất nước chúng ta quá nhiều tín ngưỡng giết hại, tín ngưỡng mê tín dị đoan, tín ngưỡng ông lên bà xuống, tín ngưỡng cúng sao giải hạn, và vô vàn các tập tục làm cho ta đánh mất chính mình mà không biết cách làm chủ bản thân. Hiện tượng xin bùa phép, phát lộc trong các đình, chùa, miếu để được làm ăn phát đạt, dán tiền lên tượng Phật, Bồ-tát hoặc lấy tay xoa lên hình tượng rồi xoa vào thân mình, gọi đó là lộc của trời, Phật, Bồ-tát hay đấng bề trên.

Khi đến chùa thì chúng ta vái lạy cầu khẩn van xin đủ thứ chuyện trên đời, chúng ta cúng một ít tiền hay phẩm vật mà muốn Phật, Bồ-tát phải ban cho mình đủ thứ hết. Nếu những gì họ cầu xin mà được như ý thì luật nhân quả sẽ không còn tồn tại. Rõ ràng từ con người cho đến muôn loài vật đều chịu sự chi phối của nhân quả, không có vật nào trên thế gian này thoát ngoài lý nhân quả.

Người không tu theo đạo Phật không tin lý nhân quả là lẽ đương nhiên, nhưng đã là Phật tử mà ta còn mê tín dị đoan lúc nào cũng cầu khẩn van xin, mong muốn đủ thứ, như vậy có xứng đáng là người Phật tử chân chính hay không?

Như ông nhà giàu trong câu chuyện trên, nhiều đời đã biết cúng chùa, làm phước, bố thí, nên hiện đời mới được giàu có…tuy nhiên do ông ta thiếu tu cho nên càng giàu có càng tham lam, bỏn sẻn rồi lại nghĩ mình giàu sang là do các bậc hiền Thánh Phật, Bồ tát ban cho.

Nếu chúng ta bố thí với tâm tham lam, ích kỷ, mong muốn việc bố thí để cho mình được giàu hơn, dĩ nhiênvẫn có phước nhưng tâm tham đắm dính mắc vào đó ngày càng nặng hơn, càng bố thí ta càng mê muội.

Nếu chúng ta phóng sinh với tâm tham muốn, với tâm ham danh thì ta sẽ bỏ tiền ra mua con vật đó rồi nhốt lại, chờ ngày mai có lễ trong chùa mới tụng kinh cầu nguyện phóng sinh, mặc cho con vật thoi thóp trong chậu, trong lồng. Phóng sinh như vậy là vì muốn nhiều người khác được biết đến tên tuổi của mình, vô tình đánh mất ý nghĩa phóng sinh không phải vì lòng từ bi thương vật.

Phóng sinh đúng nghĩa của nó là khi thấy con vật đang bị con người định giết để làm thịt bán, ta vì lòng từ bi thương xót nó, muốn chúng được sống nên năn nỉ người định giết mua lại và thả nó. Phóng sinh như vậy mới đúng ý Phật, cách phóng sinh đó sẽ không làm cho người khác lợi dụng như những người mua bán chim cá trong các chùa.

Người Phật tử chân chính, trước tiên phải nghiên cứu lời Phật dạy rồi sau đó suy gẫm quán chiếuứng dụng tu hành, thì ta sẽ biết rõ mọi việc trên thế gian này đúng sai, phải quấy, tốt xấu, thật giả.

Chúng ta tin ở đây là niềm tin chân chính sau khi phát sinh trí tuệ, nhờ vậy ta tin sâu nhân quả, tin chính mình làm chủ được bản thân. Do đó khi ta thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật vì lòng cung kính, vì sự biết ơn, để chúng ta cố gắng thực hành theo bằng cách phước huệ song tu cho đến khi nào bằng Phật mới thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2241)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2543)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3271)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2558)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2479)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2232)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2593)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2661)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2728)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2785)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3085)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2296)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3283)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2835)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2962)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant