Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!

14 Tháng Tư 201607:17(Xem: 9340)
Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!
CHÚNG TA NÊN XÉT QUẢ NGỪA NHÂN!

HT Thích Thanh Từ

Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!

Biết rõ quả hẳn từ nhân mà có, không có chuyện ngẫu nhiên. Hiên tại khổ hay vui đều do nhân quá khứ đã tạo, muốn không khổ , muốn được an vui, phải tránh nhân xấu, đó là chân lý thiết thực. Kinh dạy :“ Bồ tát sợ nhân, chung sanh sợ quả” . Bồ táttrí tuệ thấy rõ quả vốn từ nhân mà sanh, nên cẩn thận từ cái nhân, không muốn có cái quả đó thì trước phải tránh cái nhân đó. Trái lại, chúng sanh vì thiếu trí tuệ, cái nhân ác cứ tạo rồi khi quả đến thì than van, oán trách, chạy trốn hoặc tự tử… Song trốn làm sao khỏi, khi quả đã chín tới? Mình chửi người, mà muốn người đừng chửi lại, đừng oán hờn mình sao được ? Nếu mình có quyền thế, họ không dám chửi lại ngay lúc đó, nhưng họ cũng hận trong lòng, gặp dịp mình thất thế họ sẽ trả lại cho mình.

Phật dạy người Phật tử phải biết giữ gìn năm giới cấm, chính là ngừa cái nhân dữ, giúp người sống được an vui đúng pháp. Kinh Pháp Cú có câu :
Người ngu làm điều ác
Không tự biết lỗi lầm
Khi tội thành, hoạ đến
Tự thiêu đốt thân tâm.

Người học Phật chân chính phải nắm vững lẽ thật này để sống khế hợp với Phật Pháp.
Hơn nữa, người hiểu đạo, biết rõ quả vốn từ nhân mà có, nên dù gặp quả khổ đến vẫn cứ bình tĩnh trả, không oán trách than thở. Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy về Hạnh Báo Oán như sau ;
“ Người tu hành khi gặp phải cảnh khổ, phải tự nghĩ nhớ rằng : Ta từ trong vô số kiếp lâu xa, đã bỏ quên gốc chạy theo ngọn, đành bị trôi nổi lang thang trong các cõi. Ở trong đó phần nhiều dấy tạo không biết bao nhiêu điều trái nghịch, oán ghét, hận thù. Nay đây, tuy không có phạm phải, nhưng đó là họa ương đời trước của mình, cái quả của nghiệp dữ đã chín muồi, chớ chẳng phải trời, chẳng phải người hay ai đem đến cho mình, sẵn lòng mà nhận chịu thôi, đều không sanh tâm oán trách. Kinh nói : “ Gặp khổ chẳng lo buồn. Tại sao ? Vì biết thấu suốt duyên cớ”

Tức là người biết tu, khi gặp cảnh khổ đến, tự xét rõ, đây là do nhân quá khứ của mình đã tạo, không phải ngẫu nhiên ai đem đến cho mình. Dù đời này mình không có tạo nhiều nghiệp ác, song trong quá khứ lâu xa của dòng luân hồi , mình đã tạo biết bao thứ nghiệp đâu thể nhớ biết, nay quả đã chín tới thì phải chịu, như có nợ trả xong thì nhẹ nhàng. Còn nhân lành hiện nay mình đã làm, nó sẽ kết thành quả về sau không mất đi đâu. Do quán xét như thế nên bình tĩnh trước cảnh khổ, yên tâm tu hành. Trái lại, người đời không rõ lẽ nhân quả sâu xa ấy, khi gặp cảnh khổ tới thì oán trời trách đất, tưởng như trời đất bất công, sao cứ đem cảnh khổ đến cho mình. Không ngờ đó là quả của mình đã tạo từ trước, oán hận, nguyền rủa, càng tạo thêm nghiệp mới, khổ chồng thêm khổ, không thể hết.

Kinh Pháp Cúcâu chuyện :
Thuở xưa có anh chàng mồ côi cha, sống nuôi mẹ rất hiếu thảo. Đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không chịu lấy vợ. Thấy con làm việc nhọc nhằn, bà mẹ khuyên chàng nên lấy vợ để giúp bớt việc nhà. Lần đầu chàng từ chối, nhưng bà mẹ nói nhiều lần, chàng đành chịu, và bà tìm cưới cho chàng một cô gái trong xóm. Không may cô dâu này không sinh đẻ, bà mẹ thì nóng lòng muốn có cháu, nên bà lại bàn với con trai cưới thêm vợ lẽ. Chàng trai nhất định không chịu. Bà mẹ cứ khuyên nhiều lần khiến cô vợ nghe được. Cô nghĩ, nếu để bà đi cưới vợ lẽ cho chồng thì cô sẽ bị xem thường, chi bằng tự cô đi cưới vợ lẽ cho chồng. Cô tìm được một cô gái trẻ trong xóm cưới về cho chồng. Nhưng rồi cô cũng không an tâm. Cô dặn người vợ lẽ này khi nào có thai thì cho cô hay để cô mừng. Cô vợ sau thật thà, khi biết mình có thai bèn báo cho cô vợ cả. Cô này bèn tìm cách bỏ thuốc phá thai, kết quả cô vợ sau bị sảy thai. Lần thứ hai cũng thế. Các chị em hàng xóm thấy vậy tò mò hỏi thăm và biết là do cô vợ cả hại, bèn bảo cô này không nên thật thà báo cho cô ấy biết nữa.

Lần thứ ba có thai , cô này im lặng không cho cô vợ cả biết. Nhưng cô ấy thấy bụng cô vợ sau to dần thì hỏi đến. Biết được rồi , cô không chịu thua, cũng tìm lúc cô vợ sau sơ hở, bèn bỏ thuốc phá thai như trước. Nhưng cái thai đã lớn thành hình nên khiến cho cả mẹ lẫn con đều chết. Trước khi nhắm mắt, cô vợ sau uất hận thề phải trả thù trong kiếp sau. Sau khi chết cô ta sanh làm con mèo trong nhà ấy. Ông chồng biết sự việc, bèn đánh đập người vợ cả, khiến người này cũng bệnh chết và tái sanh làm con gà mái ở trong nhà. Mỗi khi con gà mái đẻ trứng thì con mèo đều đến ăn sạch. Lần thứ ba thì nó bắt ăn luôn gà mái mẹ.

Gà mái chết sanh làm con beo cái. Con mèo sau đó không lâu cũng chết sanh làm con nai cái. Mỗi khi nai cái sanh con đều bị beo đến bắt ăn. Lần thứ ba thì nó bắt ăn luôn nai cái.

Nai cái chết lại sanh làm quỷ Dạ xoa và beo cái chết thì sanh làm một con gái trong một gia đình tôn quý ở Xá Vệ. Khi lớn lên cô gái lập gia đình. Một thời gian sau, cô sanh đứa con đầu lòng. quỷ dạ xoa bèn biến thành người bạn thân của cô đến thăm. Người nhà không biết, bèn chỉ cho dạ xoa vào phòng cô gái. Dạ xoa đi vào phòng và nhanh tay chộp lấy đứa bé nhai nuốt gọn. Lần thứ hai cũng thế. Đến lần thứ ba cô vợ bàn với chồng, ở đây có quỷ dạ xoa đã ăn thịt hai đứa con trước, lần này định phải trở về nhà cha mẹ để sinh nở.

Nói về quỷ Dạ Xoa, lúc ấy tới phiên phải đi lấy nước cho vị chúa tể cai quản mình, mấy tháng sau mới hết hạn trở về. Quỷ Dạ Xoa vội vã tìm đến gặp người vợ trẻ này. Đến nơi thì được biết cô này đã đi về nhà cha mẹ, nó liền chạy vào thành tìm.

Lúc này đã đến ngày đặt tên, bà mẹ tắm rửa và làm lễ đặt tên cho đứa con xong, bàn với chồng trở về nhà.
Trên đường về, đi ngang qua Tinh xá, đến hồ nước của Tinh xá, cô giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Tắm xong, cô lên ẵm con cho chồng tắm. Ngay lúc ấy, Dạ Xoa chạy tới, cô vợ hoảng hốt, vội ẵm con chạy thẳng vào Tinh xá. Gặp lúc Thế Tôn đang thuyết pháp giữa chúng hội, cô đặt đứa bé dưới chân Thế Tôn và thưa :“ Con xin cúng dường Ngài đứa bé này, xin Ngài cứu lấy nó !”.

Quỷ rượt tới cổng Tinh xá bị thần giữ cổng ngăn lại. Thế Tôn biết, bèn bảo Tôn giả A-nan gọi vào. Thế Tôn dạy :”Sao ngươi làm như vậy ? Nếu không gặp một vị Phật như ta, ngươi sẽ ôm ấp mối hận này đến ngàn đời không khác gì con rắn và con cáo hay quạ và cú. Sao ngươi lấy oán trả oán ? Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Thế Tôn liền nói kệ :
Đời này hận rửa hận,
Muôn thuở chẳng sạch thù.
Từ bi rửa sạch hận,
định luật ngàn thu.
Dứt bài kệ Dạ Xoa đắc quả Tu-đà-hoàn, và giải toả được mối oan trái hận thù từ nhiêu kiếp.

Quả thực nếu không hiểu Phật pháp, rõ thấu lý nhân quả, cứ đem hận thù kết chặt với hận thù, tạo thành cái khổ truyền kiếp. Cần cởi mở thì nhẹ nhàng và an vui cả hai. Oán hận nên cởi không nên cột, là điều cần phải nhớ !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2657)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2349)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2665)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2436)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2543)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2649)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2989)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2554)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4089)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2772)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2289)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2869)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2632)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2385)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2686)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2744)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2130)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2597)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2713)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant