Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cõng Nghiệp Rong Chơi Bên Bờ Vực Thẳm

20 Tháng Tư 201613:17(Xem: 8681)
Cõng Nghiệp Rong Chơi Bên Bờ Vực Thẳm

CÕNG NGHIỆP RONG CHƠI BÊN BỜ VỰC THẲM

Nhụy Nguyên

Cõng Nghiệp Rong Chơi Bên Bờ Vực Thẳm

 

Một câu trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một là tất cả, tất cả là một). Chân lý này hơn 20 năm trước đã được nhà vật lý D. Gabo chứng minh qua Lý thuyết toàn đồ và nhờ vậy ông vinh dự nhận giải Nobel. Phật còn dạy: Một hạt vi trần chứa tam thiên đại thiên thế giới. Chúng ta thực tế hiểu chưa tới một phần tỉ chính mình. Ở mỗi người, thức a lại da lưu vô vàn thông tin từ kiếp này và cả những kiếp trước, nên đời người rất phức tạp. Ý khởi từ sâu trong vọng tâm [a lại da], rồi truyền đến mạt na thức; trí não mới bắt đầu nhận [lệnh] và sai sử giặc ngũ căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tạo tác; nghiệp ấy sẽ lại dội ngược vào tàng thức, lưu cho đến khi [nhờ tu tập mà] Phật tâm hoàn toàn hiển lộ; cảnh mộng mới biến mất.

Chiếu theo khoa học hiện đại, a lại da [vọng tâm] ở mỗi người ví như đài thu phát sóng siêu cấp, hút hết thảy thông tin từ vũ trụ. Nhưng chỉ những thông tin mà ngũ căn của ta nhận bắt xử lý (ước khoảng chưa tới một phần tỉ) mới thực sự sâu đậm, dễ thành chủng tử khởi sinh nghiệp trong thời gian ngắn. Cũng có nhiều trần cảnh thoáng qua tai mắt rồi vùi lấp đâu đó trong a lại da, thậm chí qua những kiếp khác, nhờ tác động mạnh bởi duyên bên ngoài đã khởi dậy sanh nghiệp dữ. Thử xét ở một hiện tượng: Đạo Văn.

Đạo ở đây, xin khoanh vùng ở sự vô tình; (những trường hợp cố ý đương nhiên không nằm trong lộ trình nghiệp thức này). Chẳng hạn người lướt qua một bài thơ trên mạng trên giấy hay thoáng nghe qua ai đó đâu đó, rồi quên hẳn, quên tuyệt đối, đến mức có ai hỏi từng đọc những câu thơ này chưa, cũng không nhớ. Không. Chưa hề. Bỗng một ngày nhân sự kiện tương đồng với bài thơ mình từng đọc dội đến, nhà thơ khởi ý làm một bài thơ. Bật ra tứ. Nhà thơ mang giấy bút bắt đầu nghiêm túc nghĩ được mấy dòng, lại nghĩ, lại viết. Từng câu từng chữ đều từ óc mình nặn ra.

Lúc bài thơ khá trọn vẹn, nhà thơ đọc lại, thấy vẫn còn vài chữ chưa ưng ý, lại suy nghĩ, thay từ này từ kia, đổi đến mấy lần mới chuẩn. Nhưng. (Điều không ngờ, trí thì có thể quên, song a lại da thức thông qua những dạng camera tự động (như mắt), nhoáng cái đã lưu đến từng âm tiết, từng tiếng động nhỏ, từng chi tiết cực vi, kể cả những thông tin mà tai, mắt, mũi không hề tiếp xúc). Nhà thơ không ngờ, duyên tương đồng khởi hiện cũng là lúc thông tin từ a lại da thức giấc, được lôi ra mà trí não không hề hay biết. Tác giả sẽ rất ngạc nhiên lúc người ta đưa đến một bài thơ của người khác giống đến khó tả. Y như cùng một khuôn. Phản đối. Đây là bài thơ tôi làm trăm phần trăm. (Dĩ nhiên). Tôi chưa hề đọc bài thơ này. Chính bài thơ này mới đạo của tôi. Thế là sôi dư luận. Người ta tị hiềm, công kích, cay nghiệt lên án. Người ta nhầm lẫn giữa chống cái xấu cái ác với khuếch trương bản ngã, tự cho mình cái quyền phán xử trong lúc không thể nhìn rõ chân tướng sự việc. Luận về nghiệp, lại càng không. Dẫu người ta lôi chứng cứ rành rành.

Oan! Mà không oan. Đến đây, nhà thơ sau bao thời gian không tin nổi chuyện đã xảy ra, mới lắng tâm suy xét. Trí não bỗng kích hoạt, hình như, hình như có lần nào đó mình có lướt qua bài thơ này đâu đó. Vấn đề lại ở trí não. Mà không phải trí não. Chính là a lại da khởi “tác dụng”. Quy cho cùng, đó cũng là Nghiệp. Dẫu vậy, trong họa có phúc. Giả như ta dư nghiệp, ắt gặp hoạn nạn. Nạn đến (thông qua sự mất mát về tiền tài, danh vọng, bệnh tật v.v), tức ta đang thẩy khỏi mình một ít nghiệp.

Ta tạo ác, cõng nghiệp, mà nạn không/chưa mò tới, một là vẫn còn phước đỡ giùm (phước đỡ từng nào đương nhiên lại phát sinh thêm nghiệp), hai là, mạng chung!, nhẹ hơn cũng sống không bằng chết. Đây cũng là một vòng quay mới của nghiệp. Nhờ sự chết còn hơn sống, nhờ sự chết bất đắc kỳ tử này, [hồn, thức] ấy qua bên kia sẽ nhẹ gánh, dễ được lôi vào một thân tướng khá ổn như thân người hoặc trời (không đọa xuống súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục); còn người ấy với số phận như thế nào lại là một chu trình nghiệp khác nữa tùy vào duyên khởi và chính sự tin hiểu mức nào về chân lý vũ trụ.

Thức a lại da đã được khoa học hiện đại chứng minh. Nó, như một file lưu giữ mọi thông tin kiếp người. Càng minh chứng điều hễ trong không gian này có một tỉ thông tin, thì nó đều tiếp nhận và lưu kỹ, song những thông tin được tai mắt kiểm soát mới dễ bị kích động kích hoạt. Hãy so sánh với ông Google. Lúc ta để trong ngoặc kép một dòng tên nhân vật nổi tiếng hay một địa danh, một sự kiện v.v, chưa tới một giây có khi ông Google cung cấp hàng triệu thông tin liên quan. Trên Youtube cũng vậy. Chẳng hạn search về bốn chữ “A Di Đà Phật”, liền hiện ra hàng loạt clip. Tắt máy, mai ta mở lại Youtube, trên màn hình đã tự hút thêm về những tin tức mới nóng về “A Di Đà Phật”. Đáng nể. Một cỗ máy do con người sáng chế đã làm được nhiệm vụ thu thông tin một cách tự nhiên như vậy, huống hồ chính bản thân con người. A lại da thức của ta chứa hầu như mọi thông tin thế gianvũ trụ (nếu tính cả những tiền kiếp). Tại kiếp này, ví như tác giả nọ muốn viết về đề tài X., lập tức trí não sẽ tự lôi mọi thông tin ta lưu trữ, quan trọng nhất vẫn là lượng thông tin “vô hình” được lưu sâu trong tàng thức, nó sẽ tuôn ra như suối khiến ta ngạc nhiên đến sửng sốt.

Ở góc độ Phật pháp mà nhìn, chỉ cần con người khởi ý về Z., mọi thông tin liên quan đến Z sẽ được quy tụ; là người có tâm lực mạnh, nhất là người với công phu hành pháp cao, những thông tin “mật” độc đáo dưới dạng từ trường, sóng, năng lượng [vô hình] sẽ được hút về, tác động lên não bộ. Những vị sư thâm hậu, họ giảng một bộ kinh chú giải kinh lên tới hơn một ngàn giờ, mà không hề chuẩn bị. Cứ đến là giảng, xong một lần vài tiếng thì gấp lại làm việc khác (đã xếp kín thời gian trong ngày), mai giở ra giảng tiếp tự tại. Điều này thật sự vi diệu.

Cũng thật sự nguy hại đối với người không hành chánh đạo, mà trước hết không sống đời phạm hạnh; bởi vọng tâm vốn dĩ sở bất thiện luôn lấn át sở thiện, ý nghĩ xấu thường nhiều gấp bội tốt. Một người trú trong ngôi biệt thự, hầu như không [cần] có nhu cầu ra ngoài, ngập chìm trong chiếc điện thoại nối mạng, suốt ngày xâm nhập thế giới đồi trụy, nghiện bạo lực và sex đến mờ mắt vẫn còn mê. Đó là người tạo tội nặng khôn kể đối với thế giớivũ trụ; với nghiệp ấy chỉ cần một thời gian ngắn, tuổi thọ do tổn phước bị rút xuống thảm hại, điều này thực không quá. Nghĩ xấu, vô vàn ý niệm xấu tương đồng từ khắp mọi phương sẽ cùng chiêu tụ về trong khoảnh khắc, tạo thành một trường lực tăm tối bao quanh. Chưa nói đến thiền vốn rất siêu tuyệt, ngay những người tu khí công cao họ đã nhìn thấy vầng ánh sáng tựa hào quang nơi mỗi người, nếu chỗ nào lõm khuyết tức chỗ đó bệnh.

Trong nhà Phật, bậc chứng Sơ thiền sẽ nhìn thấy sắc màu ở từng người, dao động theo tâm ý khởi sự. Những kẻ sát nhân đôi khi đơn giản khởi niệm xấu, bỗng chiêu niệm la sát hội tụ, thế là sát khí tăng gấp bội, gấp tỉ lần. Ta đứng xa thấy người này đánh người kia, phân định phải trái rõ ràng, song dẫu sao đó cũng là cái nhìn thấy một phần tỉ nguyên nhân; đằng sau người khởi sự đánh ấy là con tàu nghiệp lực hàng vạn toa chở vô số oan gia trái chủ lao tới hùa với người kia tạo nghiệp. Điều này những bậc tu đắc quả thánh ắt thấy. Họ còn thấy hàng trăm kiếp mình từng trải; a lại da đối với họ lúc ấy như hồ sơ lưu giữ thông tin sống động suốt quá trình họ nổi trôi luân hồi.

Mọi thông tin trên trái đất này đều có trong tàng thức mỗi người, mấu chốt là ta chưa thể biết có mà thôi, nhưng muốn cũng có thể cảm nhận. Ai một lần du lịch nước ngoài hay đến vùng đất lạ trong nước, họ đứng ngẩn ra, ô sao nơi này quen, thân thiết quá, đến muốn ở lại luôn; đơn giản bởi những kiếp nào đó ta từng sống nơi đây. Nguyên lý để ta yêu hay ghét một sự vật hiện tượng, trước hết là: căn (nhãn, nhĩ, tỹ…) tiếp xúc với trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), ví như mắt (nhãn căn) tiếp xúc với sắc; mũi (tỹ) tiếp xúc với thanh; thiệt (lưỡi) tiếp xúc vị v.v, tâm sẽ khởi lên sự thích hay không.

Sắc hương vị ấy ví như thông tin, thông tin phải qua người lính gác cổng ý thức; ý thức chuyển thông tin vào mạt na (tức người có quyền dưới một người trên vạn người; vị này mới đưa thông tin ấy dâng lên ông-vua-tàng-thức; nếu thông tin từng được lưu lại như một kỷ niệm đẹp trong quá khứ, nó sẽ thích. Thích, a lại da liền gật đầu với mạt na, mạt na báo ra với tên-lính-ý-thức, ý thức bây giờ mới tác động lên trí não để sai khiến chân tay miệng làm nô lệ. Vòng quay từ lúc căn tiếp xúc với trần rồi đến vua, vua gật đầu chuyển ra ngoài sự yêu hay ghét chỉ trong sát na, có thể là một phần tỉ giây. Hoàn toàn trí não không kiểm soát. Lại tỉ dụ. Sau một tuần công tác về, ta tới quán gọi ly cà phê. Nhấp một ngụm, nhăn mặt. Không ngon. Không ngon không hẳn ly cà phê lúc đó không ngon, mà nó không ngon đúng như ký ức ta lưu về một ly cà phê trước đây. Ăn một món cũng vậy. Nó dở trước hết bởi không giống như ta từng ăn món này được nấu rất ngon. Ký ức [tham] lưu toàn vẹn sự ngon đó một cách sâu sắc. Nghe bản nhạc cũng tương tự. Cô này hát dở. Dở là chính ta đang so sánh với ca sĩ khác hát trong quá khứ, trong tiền kiếp với dòng nhạc tương tự; rồi nếu bài này được gắn với một kỷ niệm tình thì ký ức đạt đỉnh. Nhạc sến có cần không? Khẳng định có. Một nhạc sĩ thiên tài nhiều lúc họ vẫn lắng nghe một bài nhạc sến. Họ lục lại ký ức, hồi đó từng ngồi với nàng nơi đó nghe bài này rồi chia tay… nàng đã khóc. Bài nhạc sến trở thành món đặc sản tinh thần đối với một nhạc sĩ có tầm. Nói xa hơn, hiện tượng đồng tính nếu khế lý kinh cũng không khó hiểu. Anh [là đàn ông] bây giờ, kiếp trước mang thân nữ. Kiếp này dẫu đàn ông song ký ức lưu giữ về một cá tính nữ quá mạnh, quá sâu quá lâu, quá trỗi vượt, nên kiếp này [đầu thai] mang thân nam, những cá tính lưu trong a lại da là nữ ấy cứ dâng tràn. Anh [với tính nữ] chỉ muốn yêu một người nam. Nỗi đau này đến trời cũng không cảm thông nổi. Lại gọi đích danh là nghiệp.

Làm sao chế ngự nghiệp lực. Duy chỉ con đường: Tu. Mục tiêu là khiến tâm trụ lại một điểm. (Rồi mới tiến đến mức tối thượng thừaVô Trụ). Có thể đó là ngồi quán hơi thở vô ra, đó là nhiếp tâm tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Trì chú tụng kinh hay niệm Phật đều phải tâm khởi (dẫu là khởi thầm) tai luôn nghe rõ, gọi là tánh nghe; giống như ta tưởng đến một tiếng chuông và nghe trọn vẹn nó vậy. Như vậy mới hầu mong bạt được vọng niệm, quy thuận vọng niệm, cảm hóa vọng niệm, dần đắc định, dần tiến đến có niệm mà không niệm. Vọng niệm cũng như một cơn cảm cúm, đến rồi nó sẽ tự trôi, không nhất thiết phải dùng thuốc. Mỗi khi cơn giận khởi, chỉ nên “cười trừ”. Trong những thứ “đồ giả” bất chợt ùa tới, cũng có thể xem là Phật, Bồ Tát đang thử tâm mình.

Mối quan hệ giữa ta với bà hàng xóm từ lâu vẫn rất hiền hòa, tự dưng một ngày bà vu ta thế này thế kia; ngay lập tức không dễ an nhiên song mấy giây sau nên quán, Bồ Tát xúi bà thử tâm mình có định lực không đó; chẳng những thế, chính bả là Bồ Tát hiện tướng. Rồi hướng ngay vào nội giới, tâm lần theo từng chữ A Di Đà Phật. Như vậy, từ vô vàn con người ta gặp (kể cả qua hình ảnh [tĩnh và động], qua giấc mơ), những ảnh đó đều từ vọng tâm phóng chiếu; ta đã nâng lên được tầm giải ngộ cao hơn trong hành trình quán chiếu, rằng họ chính là Bồ tát hiện tướng để thành tựu cho chỉ một mình ta thôi, không ai khác. Vẫn tức, vẫn muốn đôi co phản bác, muốn đánh họ cho hả? Sao được. Sao có thể chửi Bồ Tát, sao có thể đánh Bồ Tát chứ! Chú tâm vào câu A Di Đà Phật đi thôi. Niệm Phật đi thôi! Mỗi chữ hồng danh đều mạnh mẽ như tiếng chuông vỡ trong khuya, loang dần trong huyết quản; phiền não sẽ tan như sương dưới nắng mai chan hòa. Từ này đến sự có thể là quãng đường ngút mắt, nhưng hẳn là thước đo của sự thăng tiến công phu; cho thấy tâm ta đang ngày một “hao hao” tâm Phật.

Ở cấp độ khác, tu là sửa mọi hành vi cho đúng với quy luật vận hành của vũ trụ. Nếu sống theo đúng giới luật Phật chế, chính là sống trong pháp luật của vũ trụ, không vi phạm pháp luật vũ trụ. Là sản phẩm của một gia đình - bạn đang tự hạn chế mình. Ta là sản phẩm của một nước - bạn đang tự hạn chế mình. Là sản phẩm của toàn cầu - bạn cũng đang tự hạn chế mình. Đúng ra, con người là sản phẩm của vũ trụ. Cả vũ trụ ở trong tâm, nhưng ta không biết. Nhập lưu rồi toàn vũ trụ nằm trong chân tâm bổn tánh. Một niệm có thể trùm khắp không gian vượt khỏi giải ngân hà và đi hoài vô tận. Chúng ta tin hay không thì điều này vẫn tồn tại.

Chúng ta tin chết không phải hết hay không?, tin chết rồi thức [a lại da] có thực đầu thai vào một trong các nẻo lục đạo hay không?, tin địa ngục hay không?; tin hay không tin nó vẫn tồn tại. Dẫu bạn theo bất cứ tôn giáo nào cũng không nằm ngoài quy luật vũ trụ. Quy luật vũ trụ luôn thông dự vào cuộc đời ta trong từng ý niệm. Đức Phật đơn giản là người phát hiện quy luật này nhờ vượt qua cả bát định tiếp nhập lực thiền thậm thâm trong mênh mang Niết Bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10889)
Thực hành Phật pháp là học cách sống, và đó là con đường vừa đầy niềm vui vừa đầy thách thức.
(Xem: 14792)
Đau khổ là một phần của cuộc sống đối với tất cả chúng sinh có tình thức. Nếu chúng ta biết tìm ra nguyên nhânphương cách để thoát khổ, chúng ta sẽ bớt khổ hơn.
(Xem: 10293)
Khi bạn phân tích triết lý này từ quan điểm của y học Trung Quốc cổ đại, sinh lý học và tâm lý học hiện đại, bạn có thể thấy rằng “tướng do tâm sinh” là có thể lý giải.
(Xem: 9065)
Mở bất kỳ Kinh Nhật Tụng nào trong các chùa Bắc Tông, chúng ta đều thấy có các nghi thức cầu an, cầu siêu. Nhiều người nghĩ rằng...
(Xem: 9096)
Tiếng chuông chùa ngân nga, văng vẳng trong không gian rồi tan loãng giữa xóm làng sau khi đã thâm nhập chốn dương trần và đưa nhân gian vào cõi tịch tĩnh hư không.
(Xem: 22068)
Tính từ đêm nhìn ngắm trời sao Paris qua khung cửa sổ Linh Sơn, hơn ba mươi năm đã qua còn nhanh hơn bóng câu qua cửa.
(Xem: 8874)
Theo quan điểm Phật Giáo, đau khổsự thật mà không ai có thể trốn tránh được. Chúng ta ai rồi cũng phải đối mặt với sự già nua, sự đau ốm...
(Xem: 8798)
Đặc thù của tướng mạo có quan hệ với sự di truyền của bố mẹ, như màu da sắc tộc, tính nết của con người hoặc đẹp hay xấu đều ảnh hưởng nửa đời trước của chính mình,
(Xem: 8515)
Phòng hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tắm trong ánh nắng dịu dàng của buổi sáng.
(Xem: 8588)
Đức Phật thành tựu giác ngộ cũng nhờ nương theo tinh thần trung đạo, tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnh.
(Xem: 8763)
Nếu muốn mang lại cho mình sự bình lặng thì các bạn phải thực hiện được nó trên tất cả mọi mặt.
(Xem: 7809)
Bậc chứng thánh, bậc chân tu thực sự có công phu, sống trong tịnh pháp, phần lớn đều là những người vô bệnh.
(Xem: 11845)
Phải chăng còn tùy vào căn cơ của mỗi chúng ta nhận nhiều hay ít, nhưng dòng sông không biết đợi mà sẽ chảy hoài chảy mãi không thôi...
(Xem: 21980)
Phật dạy: với người không có duyên, ta dù có nói bao nhiêu lời và dùng nhiều phương tiện thiện xão cũng bằng thừa.
(Xem: 8034)
Các pháp hữu vivô thường, có được rồi cũng sẽ mất, có thành thì phải biến hoại, có sinh thì ắt sẽ bị già bệnh chết.
(Xem: 9546)
Jürgen Habermas sinh năm 1929 là giáo sư Triết học tại Đại học Frankfurt (Đức) mà tên tuổi cuả ông gắn liền với Trường phái Triết học Frankfurt.
(Xem: 14303)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành thời gian cả cuộc đời mình cho Phật giáo, với mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người.
(Xem: 9301)
Kinh vô lượng nghĩa. Vô lượng trước hết nên hiểu nghĩa từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao.
(Xem: 9032)
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên.
(Xem: 8409)
Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đề...
(Xem: 8744)
Lời khuyên của Đức Phật là khi làm từ thiện, chúng ta hãy kêu gọi những người khác cùng chung-sức với mình, như thế ...
(Xem: 9912)
Muốn sống với chân hạnh phúc xin hãy chặt đứt mọi vọng tưởng điên đảo. Khi vọng tưởng điên đảo chấm dứt thì Chân Tâm sáng tỏ.
(Xem: 9647)
Thở vào để hàm dưỡng sinh lực, thở ra với lòng lành hướng về tất cả chúng sinh.
(Xem: 9537)
Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình.
(Xem: 8848)
Chúng ta cần phải lưu ý đến một điểm thật quan trọng và tế nhị là dù mình đã đạt được nhiều kinh nghiệm luyện tập thiền định.
(Xem: 9635)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt, thì không tốt-đẹp cho bằng người chỉ sống một-ngày mà hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 8318)
Không phải ngẫu nhiênĐức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”.
(Xem: 9266)
Đức Thánh Thiện không thù ghét người Trung Hoa. Như một vấn đề thực tế, ngài tha thứ họ và không để lòng gì cả.
(Xem: 9590)
Thực hành tính nhẫn nại với động cơ bồ-đề tâm được coi là nhẫn nại ba-la-mật hay sự nhẫn nại hoàn hảo.
(Xem: 9059)
Một trong những khổ đau dai dẳng của kiếp người là sự lo sợ, lo nghĩ, lo phiền, ưu tư, sầu muộn.
(Xem: 9390)
Theo quan điểm của giáo lý Phật giáo sự bất công trong đời sống chứa đựng nhiều nguyên nhân. Có những nguyên nhân...
(Xem: 21516)
Trăm năm trước thì ta chẳng có, Trăm năm sau có cũng như không. Cuộc đời sắc sắc không không, Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi
(Xem: 9012)
Ban rải lòng từ, đem tình thương đến với mọi người, mọi loài và nỗ lực bảo vệ sự sống là sứ mạng của những người con Phật.
(Xem: 9506)
Bước vào con đường tu tập Dhamma (Đạo Pháp) mà không giữ được quân bình giữa sự tập trung (concentration/sự chú tâm) và sự quán thấy (discernement/sự nhận thức) thì ...
(Xem: 8852)
Một số người có duyên lành trải qua kinh nghiệm cận tử, sau khi thoát nạn thì thay đổi hoàn toàn từ nhận thức, quan niệm sống đến hành xử theo hướng thiện lành.
(Xem: 9256)
Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo-Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.
(Xem: 10715)
Từ bùn lầy hoa sen vươn lên và nở hoa thơm ngát, cũng vậy, ai cũng có khả năng giác ngộ giải thoát như nhau.
(Xem: 9135)
Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã ...
(Xem: 10313)
“Vô Thường! Vô Thường!” Đây là đặc tính vi diệu, khó thấy thứ nhất của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng.
(Xem: 9667)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng...
(Xem: 8868)
Chúng ta phải làm thế nào để có thể quán thấy thật minh bạch năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) - tức là cả cái khối "thân-xác-tâm-thức" gây ra đủ mọi thứ khổ đau và căng thẳng.
(Xem: 8810)
Qua các thời kỳ thật xa xưa, kể cả thời đại khi Đức Phật còn tại thế, nhiều phụ nữ cũng đã đạt được chánh quảtrở thành arhat/A-la-hán
(Xem: 9292)
Trong cuộc đời luôn có nhiều hoàn cảnh trái ngược nhau với nhiều nỗi niềm mà con người phải trải qua.
(Xem: 8535)
Bệnh tật là một trong những nỗi khổ lớn của chúng sinh. Ai cũng đã từng trải qua đau ốm nên phần nào thấu hiểu sự khổ não của bệnh tật.
(Xem: 9923)
Sống ở đời, chỉ có thiện tâm mới có thể khiến người ta thay đổi, còn hận thù thì chỉ khiến lòng người ngày càng thêm xa cách mà thôi.
(Xem: 10247)
Hình chữ Vạn vốn là biểu tượng biểu thị tính chất tốt lành của dân tộc Ấn Độ cổ đại nói riêng và của cả chủng người Aryan nói chung.
(Xem: 17191)
Mấy tháng nay, Chú Pháp Đăng lúc nào cũng ngồi một mình trầm tư ngay gốc cây Sala ở phía trước chùa sau những thời kinh Tịnh Độ.
(Xem: 10671)
Thả tự do cho những người trong căn phòng tối tăm kia, cũng chính là thả tự do cho chính bản thân mình đấy! Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình.
(Xem: 9840)
Xét về nghiệp quả nhân duyên giữa cha mẹ và con cái, nhà Phật cho rằng: Con cái đến với cha mẹ ở kiếp này là có 4 loại.
(Xem: 11184)
Đã làm người trong trời đất, ai cũng muốn công danh tột đỉnh, giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant